Showing posts sorted by relevance for query VE. Sort by date Show all posts
Showing posts sorted by relevance for query VE. Sort by date Show all posts

Saturday, October 3, 2020

Quê nhà và Gia đình - Họa sĩ Trần Nguyên

 TGVN. Gần đây, mạng xã hội đã chia xẻ tích cực những bức tranh vẽ lại hình ảnh làng quê thân thương với nhiều ký ức xa xưa của họa sĩ trẻ Trần Nguyên.

Họa sĩ Trần Nguyên cho biết đây là series với những bức tranh sáng tác về chủ đề Quê nhà và Gia đình. Với anh, “một góc quê nhỏ nhưng là cả một bầu trời tuổi thơ với rất rất nhiều thương nhớ”.

Có thể thấy, qua nét vẽ sáng tạo, đầy xúc cảm, những vẻ đẹp xưa cũ, bình yên hiện lên trong trẻo khiến người xem như lắng đọng về cuộc sống bình yên không chút ồn ào, vội vã... Những bức tranh phác hoạ gần gũi hình ảnh bình dị của làng quê Việt Nam khiến mỗi chúng ta như chợt nhớ lại quê hương bình yên ngày thơ ấu.

xao-xuyen-truoc-hinh-anh-lang-que-song-dong-bang-tranh-ve-tay©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp xao-xuyen-truoc-hinh-anh-lang-que-song-dong-bang-tranh-ve-tay

Bức tranh gợi hình ảnh thân thương về những người bà, người mẹ già ở miền quê. (Ảnh: Trần Nguyên)

Facebook Bui Thu Trang chia xẻ: “Có những thứ vẫn ở trong tiềm thức, chỉ có điều bộn bề cuộc sống làm mình tạm quên thôi. Từ ánh nắng đến con đường trong làng và nhiều thứ nữa, mình ko còn nhớ rõ như thế nào cho đến khi xem lại những bức tranh này”.

Bày tỏ sự ngạc nhiên trước những nét vẽ như thật, facbook Nguyen Giang viết: "Thiếu quê hương, ta về đâu?" là câu trong một bài hát của cố nhạc sỹ Phó Đức Phương lại càng quằn quại hơn khi soi vào những bức họa sơn dầu của họa sĩ Trần Nguyên, tái hiện sinh động hình ảnh làng quê Bắc Bộ mà bất cứ ai nhìn vào cũng có thể thấy quê hương, nguyên quán hay bố mẹ ông bà mình”.

Còn facbook Nguyen Thaocho rằng: “Xem tranh của bạn ấy thấy quá đỗi thân thương, giống như chứa đựng cả khoảng trời ấu thơ của mình. Nhớ quê, nhớ ông bà, nhớ mẹ... kinh khủng. Làng quê Việt Nam bây giờ đã thay đổi rất nhiều. Vì vậy, những bức vẽ này sẽ còn có giá trị lưu giữ lại kí ức về một giai đoạn “nghèo nhưng bình yên” của nông thôn Việt Nam”.

Dưới đây là những bức tranh dưới nét vẽ tài ba của họa sĩ Trần Nguyên. (Ảnh: Trần Nguyên)

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-1©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-1

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-3©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-3

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-4©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-4

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-5©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-5

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-6©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-6

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-8©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-8

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-10©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-10

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-11©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-11

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-12©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-12

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-13©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-13

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-14©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-14

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-15©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-15

rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-16©

Được Thế giới & Việt Nam cung cấp rung-dong-truoc-hinh-anh-lang-que-viet-qua-tranh-ve-tay-16

Monday, February 4, 2013

LÀNG TÔI (Đoạn 2)

II - Cầu Ve

Đó là chiếc cầu đá khá kiên cố, nằm trên con đường duy nhất dẫn vào làng từ phía Tây và Bắc qua con sông nhỏ cạnh làng.

Theo thiển ý, Cầu Ve hiện nay đúng hơn chỉ là một cống thoát nước. Nhưng trong phương ngữ còn tồn tại cụm từ CỐNG CẦU VE, chứng tỏ xưa kia nơi đây có một cây cầu bằng tre hoặc gỗ, gọi là Cầu Ve (cầu của Xóm Ve). Sau này, khi ông cha ta be đập, đắp bờ từ hai bên lấn ra giữa lòng sông và xây cống thoát nước. Cống ấy gọi là Cống Cầu Ve.

Trải qua thời gian và theo đặc tính chung của ngôn ngữ khắp thế giới là tĩnh lược, rút gọn, đơn giản hóa (kiểu như dân miền quê = dân quê) nên từ “cống” mất dần theo năm tháng, cuối cùng chỉ còn gọi tắt là Cầu Ve, dù chiếc cầu xưa kia không còn nữa.

Cầu Ve là tụ điểm ưa thích của mọi lứa tuổi. Những ngày đẹp trời, chiều chiều, quý ông ra đây hóng mát ngắm cảnh hoàng hôn hay mơ màng dõi theo những cánh cò trắng, từ cánh đồng phía hạ nguồn đua nhau về tổ trên lũy tre làng, quả là thú vị. Những đêm trăng thanh gió mát, nhất là về tháng 7, tháng 8, vừa ngắm trăng, vừa kéo vó, hoặc lơ đãng thả hồn theo nhịp gõ cành cành vào mạn thuyền của các ngư dân lưới cá, cũng là cách thư giãn vô cùng công hiệu sau một ngày lao động mệt nhọc.

Các trai làng thường ra đây tắm, vừa bi bô tán tỉnh, vừa “rửa mắt”, ngắm những cô gái giặt chiếu, giũ lụa, hong tóc... Đây là một bức tranh đồng quê rất trữ tình.

Về mùa nước lớn (tháng 7-8) Cầu Ve đặc biệt nhộn nhịp cảnh trên bến dưới thuyền, vì đoạn bờ ở đầu cầu phía Đại Vy năm nào cũng sạt lở, nước chảy phăng phăng.

Những người gồng gánh nặng hoặc nhát, không biết bơi đều phải qua sông lụy đò. Đó là đò ngang đưa khách sang sông, chuyển dịch như con thoi giữa hai bờ. Đò dọc chở khách đường dài, xuôi ngược giữa Cầu Ve và Đồng Lạng.

Ngoài chức năng bến khách, Cầu Ve còn là bến trung chuyển lúa. Các thuyền lúa từ đồng dưới (Tào Khê) tập kết lúa về đây, chất thành từng đống để người thân và thợ ra gánh lúa về nhà.

Ngày mùa, tùy theo thời vụ, từ mờ sáng, thợ cấy, thợ gặt từ xóm Gạ, Đại Vy, Húc... tập trung trước cổng làng, chờ dân Ve ra mướn vào làm.

Vì là bến đò khách, bến lúa và chợ lao động nên cũng có những dịch vụ ăn theo như hàng quà, hàng bánh và tất nhiên không thể thiếu gánh nước chè xanh hay nước vối mà chủ thường là một cô thôn nữ xinh xinh đã đi vào thi ca.

Cuối cùng, nói đến Cầu Ve là phải nghĩ ngay đến “đệ nhất thú” trên đời – Thứ nhất là tắm sông.

Tắm sông thú lắm, vì thỏa sức vùng vẫy giữa cảnh trên trời, dưới nước, vô cùng thoáng đãng, không bị gò bó như tắm ao, tắm giếng.

Nhưng tắm sông Cầu Ve còn thú hơn nhiều, vì nước Cầu Ve vừa trong, vừa sạch, lại mát nữa! Trong – sạch – mát mẻ vì trước khi về đến Cầu Ve, nước sông phải qua một hệ thống lọc tự nhiên. Đó là hệ rễ cây, rễ bèo dầy đặc ở phía thượng nguồn, nhất là đoạn từ Đồng Thần đến hết Xóm Gạ.

Tắm Cầu Ve còn hào hứng vô cùng vì các cuộc thi bơi, thi lặn, đuổi bắt và dìm nhau chí chết. Cuộc thi nào có sự chứng kiến và cổ vũ của mấy “em” cũng đều sôi động hơn, ác liệt hơn vì “anh” nào cũng muốn trổ tài để lấy le, lấy lòng.

Với những ưu điểm trên, nước sông Cầu Ve có sức quyến rũ, mê hoặc tới mức

“Sống mà tắm nước Cầu Ve
Chết dù chả có tò te thì đừng”

Đúng thế! Tò te là chuyện của người sống, khi đã “ngủm” ai cần mấy thứ đó! Với lại, tắm Cầu Ve “đã” quá rồi, cần gì phải kèn trống tiễn đưa về miền cực lạc, vừa xưa, vừa tốn tiền! Chín suối dù có hợp lại vẫn nhỏ hơn sông Cầu Ve! Mỉm cười dưới đó đâu có sướng bằng ở Cầu Ve! Chả thế mà năm nào dân Ve cũng có người tự nguyện thoát ly thôn làng để đi theo Hà Bá!!!

Saturday, February 2, 2013

LÀNG TÔI (Đoạn 1)

LÀNG TÔI

“Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lơ lững vờn quanh...”

I - Ve

Tên cũ của làng Dũng Vy ngày nay, thuộc xã Tri Phương, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Cảnh quan ở Ve thuộc loại biểu trưng ở làng quê miền Bắc “có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lơ lững vờn quanh” có lũy tre bao bọc, một quần cư gồm “hai thôn chung một làng” và ngôi đình cổ kính khá đẹp, mới được công nhận là di sản văn hóa quốc gia. Đặc biệt lại có cả ngôi giáo đường ngạo nghễ vươn lên đúng vào thời điểm bùng nổ cuộc chiến thứ hai (1939).

Tại sao Ve ? Thử đưa ra một cách giải thích nguồn gốc danh xưng này.

Thuở xa xưa, khi đường xá còn trong tình trạng sơ khai, Ve là một vùng sâu, vùng xa (ve kêu vượn hót) hẻo lánh, nằm lọt thỏm giữa cánh đồng khá rộng lớn, có vị trí tự nhiên trải dài từ chân núi Chè ở phía Bắc qua Đồng Lạng, Ve... đến Trung Mầu, Phù Đổng ở phía Nam. Phía Đông là Cao Đình, Đền Xộp và phía Tây giáp Đại Vy... chợ Giầu bên quốc lộ 1. Nếu kẻ một trục thẳng đứng (tung) hướng Bắc-Nam từ núi Chè xuống Phù Đổng và hướng Đông-Tây từ Cao Đình đến quốc lộ 1 (hoành) thì Ve nằm ở vùng giữa hai trục. Nói một cách hình tượng. Ve là cái túi, cái rốn của vùng này.

Khi tổ tiên chúng ta tới đây lập nghiệp khung cảnh còn hoang sơ, cây cối rậm rịt. Nơi đây qui tụ nhiều muông chim hoang dã, trong đó có giống ve sầu, một loài sâu có cánh chuyên sống trên các ngọn cây cao hoặc bụi rậm. Hàng năm, cứ vào đầu mùa Hè, chúng cất cao “tiếng gọi tình thương” mở đầu thời kỳ “vui vẻ” để duy trì nòi giống. Cuộc tình ầm ĩ này vốn kéo dài đến ngày nay, dầu chỉ là rơi rớt, dư âm của một thời vang bóng.

Phải chăng tiếng ve-ve inh ỏi suốt mùa Hè đã khiến cha ông chúng ta, vốn đơn sơ chất phác lấy nó đặt tên cho nơi mình sinh sống là xóm Ve, làng Ve ?

Đây chỉ là giả thiết. Mong các bạn và các bậc cao tuổi tại quê nhà tìm hiểu, xác minh.

Nhân tiện xin mở rộng vấn đề: xung quanh Ve còn nhiều địa danh khác, cũng cần được tìm hiểu như Đền Vua, Mả Chúa, Đồng Thần... đền thờ vua nào, thời nào ? Tại sao nay không còn dấu tích ? Mả Chúa, Đồng Thần cũng vậy. Khi tôi có trí khôn, những địa danh này chỉ là những bãi đất hoang, không đền miếu, không mồ mả, không trồng trọt, trừ Đồng Thần. Tại sao vậy ?

Tuy là cái rốn của vùng, Ve có lợi thế về giao thông thủy bộ.

Thật vậy, con đường độc đạo liên thôn, liên xã chạy qua giữa làng. Do đó, các thôn phía Đông như Cao Đình, xóm Sen, Đinh Thôn muốn giao tiếp với các thôn ở phía Tây như Đại Vy, Đại Thượng, Húc...đều phải qua Ve. Ngược lại cũng thế.

Về đường thủy, Ve nằm ngay bên hữu ngạn nhánh sông nhỏ thuộc hệ thống sông Hồng, là tuyến giao lưu theo chiều hướng Bắc-Nam mà cầu Ve là bến đò trung điểm. Dân miệt ruộng muốn “lên núi” bằng đường sông, và dân miền núi như Chè, Đông Lâu, Móng muốn xuống đồng bằng đều phải qua thủy lộ này.

Ngoài lợi thế về giao thông, Ve còn có ưu thế về nông, thủy sản và chăn nuôi gia cầm, gia súc.

Đồng ruộng ở Ve khá rộng, thổ nhưỡng mầu mỡ và đa dạng. Do đó cấy được nhiều loại lúa: Lúa Chiêm, lúa mùa, lúa nếp, tám thơm... Ngoài lúa là nguồn lợi chính còn các hoa màu phụ như sắn (mì), ngô (bắp), khoai...

Chẳng phải là cường điệu khi quả quyết nguồn thủy sản ở Ve đa dạng và phong phú nhất vùng. Được vậy là nhờ hai yếu tố: hệ thống ao làng tương đối nhiều và nhất là sự hiện diện của con sông cạnh làng.

Địa thế ở Ve thấp nên khi làm nhà, bà con trong một xóm hay một chi họ, có khi là vài anh em trong gia đình, cũng dành ra một vài sào (công) để đào đấu, vừa lấy đất nâng cao nền làm sân, nền nhà chống úng lụt, vừa làm ao nuôi cá, thả bèo, rau muống, rau rút. Do đó trong làng có nhiều ao. Hàng năm, hệ thống ao làng cung cấp một lượng cua, cá, ếch tuy nhỏ nhưng cũng góp phần vào sinh kế thôn dân. Trong khi rau muống và bèo các loại (bèo tây, bèo tấm, bèo cái) là nguồn thực phẩm giúp phát triển chăn nuôi gia cầm, gia súc.

Quan trọng hơn cả là nguồn thủy sản khai thác từ đồng ruộng và nhất là từ con sông cạnh làng. Đó là con ngòi – như quen gọi – bắt nguồn từ đầm Đại Trung, chẩy qua Ve và xóm Gạ... xuống khỏi Đầm Mậy rồi chuyển hướng về Dền Xộp trước khi đổ vào sông Lục Đầu.

Mùa mưa, tôm cá... xuôi theo dòng nước về ngòi Cầu Ve rất nhiều, vì đoạn ngòi này có hệ sinh thái thích hợp: cây cối hai bên bờ tạo bóng râm, mặt sông có nhiều bèo tiện trú ẩn, rễ cây và rễ bèo lưu giữ nhiều loại vi sinh vật (do nước mưa đem từ đồng ruộng xuống) là mồi cho cá, tôm, cua, ốc, ếch, nghêu, sò...

Tùy theo con nước, thôn dân thu gom nguồn thủy sản bằng cách: cắm đăng, kéo vó, đặt lờ, chài lưới. Mùa nước cạn thì đánh quấy, tát vét...

Tóm lại, nhờ thóc lúa và nông thủy sản khá dồi dào, dân Ve có cuộc sống tương đối ổn định, nói chung, không phải ra ngoài làm thuê làm mướn. Trái lại, Ve vốn là nơi thu hút khá nhiều lao động trong vùng.

Trên đây là đôi nét về danh xưng, vị trí, địa thế và cảnh quan quê hương, nơi tôi đã trải qua thời thơ ấu đầy ắp kỷ niệm, và đã từ đó ra đi theo sự đẩy đưa của vận nước, của lịch sử, mà hành trang chỉ là quãng đời nhỏ dại và nỗi nhớ quê, nhớ tổ.

Wednesday, July 24, 2019

Những tên gọi của làng Dũng Vi (Tiếp theo)

Trong bài viết trước "Những tên gọi của làng Dũng Vi" đăng trên Blog KYDV ngày Thứ Hai 22 tháng 07 năm 2019. Tôi đã trình bày một số tài liệu tham khảo về tên gọi các thôn làng Dũng Vi xưa và nay.

Như vậy, chúng ta đã xác thực được những tên gọi này, như VE, PHÚC LAI VI, DŨNG VY và TRI PHƯƠNG cùng những tên gọi các thôn trong làng như VE ĐINH, VE LƯƠNG và VE CHỢ (VE GIÁO) hoặc THÔN NGOÀI (THÔN GIÁO), THÔN TRONG (THÔN LƯƠNG)... qua tham khảo, đối chiếu những tài liệu.

Vị trí, địa điểm của làng thì chúng ta đã có thể căn cứ trên tài liệu và bản đồ. Hãy thử phỏng đoán thời gian tính của những tên gọi này. Tổng kết có 4 tên gọi:


1-VE (Tên khởi thủy, khoảng Thế kỷ thứ ?)
2-PHÚC LAI VI (Tên vua ban tặng, khoảng Thế kỷ 10)
3-DŨNG VI (Tên hành chính, khoảng sau Thế kỷ thứ 10)
4-TRI PHƯƠNG (Tên hành chính, khoảng Thế kỷ thứ 19)

1-VE (Tên khởi thủy, khoảng Thế kỷ thứ ?)

Theo như lý giải phóng đoán của tác giả đồng hương Đinh Văn Đích bút hiệu Đinh Bằng (Giáo sư, Cử nhân Sử-Địa) trong bài LÀNG TÔI viết vào tháng 05-2000. VE là tên gọi từ khi mới khai hoang lập làng. Dưới đây là trích đoạn bài viết:

"I - Ve

Tại sao Ve ? Thử đưa ra một cách giải thích nguồn gốc danh xưng này.

Thuở xa xưa, khi đường xá còn trong tình trạng sơ khai, Ve là một vùng sâu, vùng xa (ve kêu vượn hót) hẻo lánh, nằm lọt thỏm giữa cánh đồng khá rộng lớn, có vị trí tự nhiên trải dài từ chân núi Chè ở phía Bắc qua Đồng Lạng, Ve... đến Trung Mầu, Phù Đổng ở phía Nam. Phía Đông là Cao Đình, Đền Xộp và phía Tây giáp Đại Vy... chợ Giầu bên quốc lộ 1. Nếu kẻ một trục thẳng đứng (tung) hướng Bắc-Nam từ núi Chè xuống Phù Đổng và hướng Đông-Tây từ Cao Đình đến quốc lộ 1 (hoành) thì Ve nằm ở vùng giữa hai trục. Nói một cách hình tượng. Ve là cái túi, cái rốn của vùng này.

Khi tổ tiên chúng ta tới đây lập nghiệp khung cảnh còn hoang sơ, cây cối rậm rịt. Nơi đây qui tụ nhiều muông chim hoang dã, trong đó có giống ve sầu, một loài sâu có cánh chuyên sống trên các ngọn cây cao hoặc bụi rậm. Hàng năm, cứ vào đầu mùa Hè, chúng cất cao “tiếng gọi tình thương” mở đầu thời kỳ “vui vẻ” để duy trì nòi giống. Cuộc tình ầm ĩ này vốn kéo dài đến ngày nay, dầu chỉ là rơi rớt, dư âm của một thời vang bóng.

Phải chăng tiếng ve-ve inh ỏi suốt mùa Hè đã khiến cha ông chúng ta, vốn đơn sơ chất phác lấy nó đặt tên cho nơi mình sinh sống là xóm Ve, làng Ve ?

Đây chỉ là giả thiết. Mong các bạn và các bậc cao tuổi tại quê nhà tìm hiểu, xác minh."

2-PHÚC LAI VI - 福 來 為 (Tên vua ban tặng, khoảng Thế kỷ 10)

Căn cứ trên thời gian tính của sự kiện "Chiến thắng Như Nguyệt" của danh tướng Lý Thường Kiệt tại sông Cầu vào năm 1076 (Thế Kỷ 10)...

Trích "Xứ Dũng Quê Tôi" của tác giả Đinh Văn Diệm bút hiệu Lam Thy (Giáo sư, Cử nhân Hán-Việt) đăng trên Blog KYDV ngày Thứ Bảy 19 tháng Một năm 2013.

"...Phía Nam làng cũng có một nhánh sông ôm sát lũy tre làng, gọi Ngòi Cầu Cung, hợp lưu với Ngưu Giang ngay tại xóm Gạ. Qua Ngòi Cầu Cung thì tới Đền Vua và Mả Ngụ. Nghe đồn từ xa xưa, Triều đình phong kiến có lập tại đây một trường tập bắn cung gọi là Mả Ngụ và xây dựng một ngôi đền (Đền Vua) để nếu nhà vua có về ngự thi xạ tiễn thì có nơi để nghỉ ngơi. Theo suy nghĩ của tôi thì có lẽ trường tập bắn tên là Mã Ngự (ngựa của vua hoặc có thể hiểu theo nghĩa: Mã là ngựa, Ngự là vua ngự lãm - Mã Ngự là vua cỡi ngựa bắn cung hoặc xem bắn cung - ở đây tôi giải thích chữ Mã Ngự theo cách giải thích những chữ sau: Ngự thiện = Vua ăn cơm - Ngự triều = Vua họp triều đình - Ngự xạ = Vua bắn cung - Ngự tiễn = mũi tên vàng của vua v.v...), rồi theo dòng thời gian, dân chúng đọc trại đi (luật biến âm của từ nguyên) thành Mả Ngụ chăng ? Tôi đã hỏi các vị cao niên, nhưng không ai rõ nguồn gốc chữ Mả Ngụ và cũng chẳng thấy có ngôi mộ nào tại trường tập bắn cả. Còn một điểm nữa, cổng làng phía Nam của làng tôi gọi là cổng Cầu Cung (nơi ghi dấu một cái Cung đường để nhà vua cầu phúc, hoặc có thể hiểu là nơi cầu cho cung tên được bách phát bách trúng). Trên cổng Cầu Cung còn có 3 đại tự: PHÚC LAI VI (phúc lại vi hành đến hoặc phúc đến với làng Dũng Vy). Tổng hợp cả 3 địa danh CẦU CUNG - ĐỀN VUA - MẢ NGỤ, chứng tỏ có ghi dấu ấn các Hoàng đế phong kiến ở nơi đây mà 3 đại tự PHÚC LAI VI có thể là do vua ban hoặc sắc phong cho làng..."

Đây là ý kiến của tác giả đồng hương Đinh Văn Diệm bút hiệu Lam Thy viết trong lời "KHAI TỪ - ĐINH TỘC THẾ PHỔ ( 丁 族 世 譜 )".

"...
Theo những tài liệu do các cụ thu thập được để làm cuốn GIA PHẢ HỌ ĐINH đầu tiên, thì khởi thủy từ Tiên tổ duy nhất họ Đinh (không nhớ được tên) đến khai hoang lập ấp tại bãi đất hoang ở vào khoảng giữa dãy núi hình cánh cung ở phía bắc với sông Đuống (Thiên Đức giang) ở phía Nam. Dãy núi phía bắc gồm: Trà sơn (núi Chè), Cổ Miễu, Vĩnh Phú, Bát Vạn, Phật Tích, Long Khám (Long Giáng). Nhờ dãy núi hình cánh cung, trên có sông Cầu dưới có sông Đuống, danh tướng Lý Thường Kiệt – một danh tướng văn võ toàn tài đời Lý Thánh Tông – đã lập phòng tuyến sông Cầu (vào năm 1076) để chống lại quân nhà Tống (Trung Quốc). Lý Thường Kiệt đã từng cầm quân đánh cả sang Tàu chiếm được Châu Ung, Châu Liêm, với câu nói bất hủ “Muốn phòng thủ chắc chắn, hãy tấn công vào hang ổ địch”. 

Vì có được Thiên thời + Địa lợi + Nhân hòa như vậy, nên tên làng đầu tiên được đặt là PHÚC LAI VI (khắc trên cổng Cầu Cung, mãi tới sau 1954 mới bị phá bỏ). PHÚC ( 福  ) là sự tốt lành, LAI ( 來 ) là tới, VI ( 為 ) là hành động, PHÚC LAI VI là hành động đem tới sự tốt lành, hạnh phúc. Đó là một hành động dũng cảm, và vì thế mới chính thức đặt lại tên làng là DŨNG VY ( 勇 為  )....


(Trích đoạn lời "KHAI TỪ - ĐINH TỘC THẾ PHỔ ( 丁 族 世 譜 )" của tác giả Lam Thy Đinh Văn Diệm.)


3-DŨNG VY - 勇 為 (Tên hành chính, khoảng sau Thế kỷ thứ 10)

Căn cứ trên thời gian tính sau sự kiện "Chiến thắng Như Nguyệt" của danh tướng Lý Thường Kiệt tại sông Cầu vào năm 1076 (Thế Kỷ 10).

"...
Vì có được Thiên thời + Địa lợi + Nhân hòa như vậy, nên tên làng đầu tiên được đặt là PHÚC LAI VI (khắc trên cổng Cầu Cung, mãi tới sau 1954 mới bị phá bỏ). PHÚC ( 福  ) là sự tốt lành, LAI ( 來 ) là tới, VI ( 為 ) là hành động, PHÚC LAI VI là hành động đem tới sự tốt lành, hạnh phúc. Đó là một hành động dũng cảm, và vì thế mới chính thức đặt lại tên làng là DŨNG VY ( 勇 為  )....

(Trích đoạn lời "KHAI TỪ - ĐINH TỘC THẾ PHỔ ( 丁 族 世 譜 )" của tác giả Lam Thy Đinh Văn Diệm.)"

Đây là tên hành chính dưới những triều đại phong kiến được ghi trên Thần sắc của xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Trích "Dũng Vi tổng các xã thần sắc‏ (Dẫn giải)" của tác giả Đinh Văn Diệm bút hiệu Lam Thy đăng trên Blog KYDV ngày Thứ Năm 24 tháng 10 năm 2013.

"Trong kho thư tịch di sản Hán-Nôm. Địa danh Dũng Vi đã được ghi chép trên "Bắc Ninh tỉnh Tiên Du huyện Dũng Vi tổng các xã thần sắc", mang ký hiệu AD.a7/27 của Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm vào khoảng Thế kỷ 17 dưới triều vua Quang Trung và Cảnh Thịnh...

 

BẮC NINH TỈNH, TIÊN DU HUYỆN, DŨNG VI TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC 北 寧 省 仙 遊 縣 勇 為 總 各 社 神 敕 (Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm)". 

4-TRI PHƯƠNG (Tên hành chính, khoảng Thế kỷ thứ 19)

Đây là tên hành chính của xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh dưới giai đoạn của chính quyền Cộng sản từ khoảng năm 1954 đến hiện nay (2019).

Xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh hiện nay (07-2019) có 4 thôn là Lương, Giáo, Đinh và Cao Đình (Cao Đường).

Mong đón nhận những ý kiến của quý đồng hương và bạn đọc.

Thung Lũng Hoa Vàng, Hoa Kỳ
Tháng 07-2019
Đinh Tất Thức
----------

Bài viết liên quan:
- Tên Làng: Dũng Vi hay Dũng Vy ?
- Quê hương qua Ca dao: Ba cô đội gạo lên chùa - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Thằng Cuội - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 8 Con Chuột - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bánh Bèo - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bán Rượu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Yêu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Lo - Đinh Thức
- Đình Dũng Vi - Blog KYDV
- Những tên gọi của làng Dũng Vi
- Những tên gọi của làng Dũng Vi (Tiếp theo)
- Thần Sắc và Thần Tích xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
- Thần Sắc và những vị Thành Hoàng làng Dũng Vi
- Văn Chỉ làng Dũng Vi
- Quê hương qua Ca dao: Cái Bống - Nhạc: Đinh Thức

Monday, July 22, 2019

Những tên gọi của làng Dũng Vi

Xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh hiện nay (07-2019) có 4 thôn là Lương, Giáo, Đinh và Cao Đình. Trước năm 1954 gọi là làng Dũng Vi.

Vài năm trước đây. Có một người làng Dũng Vi (thôn Lương) hỏi tôi: "Anh có phải người ở VE không ?". Tôi hiểu đại ý là anh ấy muốn hỏi tôi có phải là người làng Dũng Vi không ?...

Ngày nay, chúng ta ít tìm thấy trên những trang mạng hoặc sách báo, tài liệu viết về địa danh VE. VE chính là tên gọi của làng DŨNG VI từ nhiều thế kỷ trước...

Chợ VE chụp năm 2006 - Photo Đinh Quang Thành

Những tên gọi như: làng VE, xóm VE, cầu VE, chợ VE hay đơn giản chỉ gọi là VE cũng đã được các tác giả đồng hương Dũng Vi như ông Đinh Văn Đích (bút hiệu Đinh Bằng, Giáo sư, Cử nhân Sử-Địa), ông Đinh Văn Diệm (bút hiệu Lam Thy, Giáo sư, Cử nhân Hán-Việt) vv... kể đến trong những bài viết đã đăng trên Blog KYDV (Xem bài LÀNG TÔI - Tác giả Đinh Văn Đích tháng 5/2000 đăng trên tập KYDV Số 1, trang 34 và trên Blog KYDV ngày 02/02/2013).

Những tên gọi này không biết đã có từ bao giờ, có lẽ đã khá cổ vì được nhắc lại vào khoảng thời điểm của Tổng Dũng Vi dưới những triều đại phong kiến Thế kỷ 17 hoặc xa xưa hơn nữa ...

Nhân dịp đọc qua luận văn "Nghiên cứu Thần Tích hai huyện Từ Sơn và Tiên Du tỉnh Bắc Ninh" - Tác giả Đào Thị Huệ (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm - 2016. Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Hà Nội, dài 57 trang). Luận văn được đánh giá qua kết quả thu được là có những đóng góp hữu ích cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa hai huyện Từ Sơn và Tiên Du nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.

Trong luận văn ghi chép chi tiết rõ về tên gọi các thôn làng Dũng Vi đã được sử dụng trong quá khứ và hiện tại. Cạnh những tên gọi hiện nay, luận văn còn cho biết thêm về tên Nôm, tên cũ của các thôn làng...

Dưới đây là những tên gọi của các thôn làng ghi trong luận văn (trang 39/57):

Làng Đinh (tên Nôm là Ve Đinh)     
1 thôn xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi

Làng Cao Đình (tên Nôm là Đường)   
1 xã thuộc Tổng Thụ Phúc

Làng Dũng Vi Giáo (tên Nôm là Ve Chợ) 
1 thôn xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi

Làng Lương (Ve Lương)
1 thôn xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi

Tất cả tên Nôm các thôn làng thuộc xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi đều được gọi bắt đầu bằng VE (Ve Đinh, Ve Chợ, Ve Lương), ngoại trừ thôn làng Cao Đình (tên Nôm là Đường) thuộc tổng Thụ Phúc.


GOOGLE MAPS 07.2019 - Photo KYDV

Trên một số trang mạng và bản đồ hiện nay (07-2019), ngoài 4 tên thôn kể trên (Lương, Giáo, Đinh và Cao Đình) còn có thêm tên thôn Cao Đường cũng thuộc xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Người xem có thể nhầm lẫn thôn Cao Đình và thôn Cao Đường là 2 thôn với tên gọi riêng biệt nằm kề nhau (xem ảnh trên). Luận văn nghiên cứu này cũng cho biết rằng tên thôn Cao Đường chính là tên Nôm hay tên cũ của thôn Cao Đình hiện nay vậy...

Mong đón nhận những ý kiến của quý đồng hương và bạn đọc.

Thung Lũng Hoa Vàng, Hoa Kỳ
Tháng 07-2019
Đinh Tất Thức

(Còn tiếp)
----------

Bài viết liên quan:
- Tên Làng: Dũng Vi hay Dũng Vy ?
- Quê hương qua Ca dao: Ba cô đội gạo lên chùa - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Thằng Cuội - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 8 Con Chuột - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bánh Bèo - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bán Rượu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Yêu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Lo - Đinh Thức
- Đình Dũng Vi - Blog KYDV
- Những tên gọi của làng Dũng Vi
- Những tên gọi của làng Dũng Vi (Tiếp theo)
- Thần Sắc và Thần Tích xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
- Thần Sắc và những vị Thành Hoàng làng Dũng Vi
- Văn Chỉ làng Dũng Vi
- Quê hương qua Ca dao: Cái Bống - Nhạc: Đinh Thức

Monday, February 4, 2013

LÀNG TÔI (Đoạn 3)

III - Chợ Ve

Chợ Ve hình thành từ bao giờ không ai nhớ. Nhưng chắc chắn nó đã ra đời từ rất sớm để đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân xung quanh, vì Ve có điều kiện thuận lợi về giao thông thủy bộ (xem phần trên)

Chợ Ve tọa lạc trên mặt bằng ở giữa làng, nơi tiếp giáp 2 thôn và ngay bên đường chính liên thôn, liên xã.

Đặc điểm của nền kinh tế ngày xưa là tự cung, tự tiêu. Do đó, buổi sơ khai, sinh hoạt chợ búa ở đây giống như bất kỳ nơi nào khác, là trao đổi hiện vật: Đổi trứng lấy cá, đổi gà lấy gạo, đổi cua lấy sò chẳng hạn...

Vào khoảng cuối thế kỷ 18 (theo phỏng đoán) Chợ Ve đã khá khang trang: Có nhà lồng chợ mái ngói, có hàng ngang dãy dọc với các khu chuyên doanh, hàng thịt, hàng gạo, hàng rau qủa v.v... cạnh chợ còn có lò rèn để chế tác và sửa chữa nông cụ như liềm, hái, cày, bừa, dao, kéo v.v...

Đến giai đoạn Ve bị tạm chiếm (1949-1954) tuy ngắn ngủi, chợ Ve phát triển thêm bước mới: Bên cạnh những nông thổ sản cổ truyền còn có những mặt hàng ngoại xa xỉ như bia, cam, son phấn, nước hoa.

Thế mới hay “ Thuở trời đất nổi cơn gió bụi” mà đến cả cái chợ cũng phải long đong theo vận nước!

Kệ, đó là chuyện người lớn. Đối với bọn trẻ chúng tôi ngày ấy, chợ Ve, trước hết và trên hết là tụ điểm vui chơi. Chiều tan chợ cũng là lúc chúng tôi tụ họp. Chỗ này đáo lỗ, chỗ kia đáo múc, chỗ khác đánh khăng. Cánh họ “thị” tụm năm, túm ba chơi chuyền, nhảy dây v.v...

Những đêm sáng trăng, đặc biệt là trăng rằm tháng 8 (Trung Thu) thì dù ma có xuất hiện trên cây đa cạnh chợ cũng chả ngăn cản được chúng tôi chơi trò đúc chuông, hát ghẹo:

Nó là con gái nhà ai
Tao chẳng thích nó, nó đòi lấy tao

Có bữa gặp phải “sư tử cái mới đẻ”, nó chồm lên, đòi lột quần xé xác.

Chả sợ! Hôm sau vẫn chứng nào, tật nấy:

Con kia má đỏ hồng hồng
Đang thích lấy chồng, chả chó nào rinh
 
hoặc:
 
Con kia má đỏ hồng hồng
Ăn xê xê nhá, cho chồng... nó chê!

Ôi sao mà dơ bẩn quá! Xúc phạm đến thế, không thể tha thứ được!

Bọn tóc quả đào đâu phải vừa. Chúng trả đũa ngay! Hạ nhục cánh mày râu đến mức chả còn gì là nhân phẩm, nhân vị:

Ba đồng một chục liền ông
“Chị” nhốt vào lồng chị “xách” đi chơi

Vậy là chúng tôi đã bị hóa kiếp. Chưa hả giận, chúng bồi thêm:
 
Hai hào một tá con trai
“Chị” nhét chỗ này, “chị” vãi ra kia

Trời! Nhét “chỗ đó” rồi vãi ra bừa bãi như thế thì... mất vệ sinh quá. Xin can, chớ giỡn mặt với nhà cầm đồ!

Những kỷ niệm thời thơ ấu ấy đã “mã hóa” trong máu thịt, in sâu vào ký ức chúng tôi, đẹp như câu chuyện thần tiên bà kể cháu nghe, không bao giờ quên được, như ta không thể quên người ta yêu mến.

Quê hương là người tình

Chẳng biết từ bao giờ và ai đã ví von như vậy. Nhưng ai đã có một thời gắn bó với quê hương, khi phải xa nơi chôn nhau cắt rốn cũng đều nhận thấy câu ví đã lột tả hết tâm tư, tình cảm của người xa xứ. Quê hương sao mà thân thương, sao mà cuốn hút đến thế. Những cảnh vật ngỡ như tầm thường bỗng trở nên sinh động, như có ai thổi linh hồn vào vậy. Từ bờ tre, bụi ruối, cây đa, giếng nước đến nét cong của mái đình, vẻ uy nghi của giáo đường... đều như có sức sống nhiệm màu, “hút” chặt tâm tư, tình cảm kẻ tha hương. Theo tháng năm và tùy theo tâm trạng mỗi lúc, hình ảnh người-tình-quê-hương khi ẩn, khi hiện, lúc tỏ, lúc mờ, nhưng không bao giờ “chết”.

Quê hương là người tình bất diệt. Khẳng định như thế để không vong thân, mất gốc. Và để cùng nhau “giữ thơm quê Mẹ”.

Sàigòn – TP. Hồ Chí Minh
5-2000

Đinh Văn Đích

(Trích KYDV Số1, trang 34)

Wednesday, January 23, 2013

XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)

Trở lại trên, phần lớn những chuyện kể đều mang tính huyền sử, để kết thúc bài này, tôi xin kể câu chuyện có thật 100% nhưng lại rất khó tin đối với những người chưa có hoặc chưa vững đức tin Kitô Giáo. Vào cuối năm 1952 (tôi quên mất ngày tháng), chú em Phan Tự Phiêu - con cô ruột tôi - đang làm Hương Dũng ở làng tôi. Một hôm đang gác ở cổng Cầu Ve thì có một anh khoảng trên 30 tuổi, ăn mặc luộm thuộm, người gầy gò hốc hác đi từ Đại Vy xuống hỏi em:
    - Chú làm ơn cho hỏi thăm, ở làng ta có miếu nào thờ ông Thần to lớn, râu tóc bạc phơ, mặc áo nâu, tay trái bế em bé đẹp như Tây lai, tay phải cầm cành huệ - không, hả chú ?
Phiêu thấy lạ, vả còn ít tuổi (em mới 18 tuổi) nên trả lời:
    - Để tôi dẫn anh vào bác tôi, ông ấy biết rõ hơn tôi.
Rồi dẫn người khách Đại Vy (Phiêu quên hỏi tên họ) vào gặp Cụ Xếp - thân phụ tôi. Cũng câu hỏi lúc trước được lặp lại. Cụ Xếp vui vẻ:
    - Có, để tôi dẫn chú em đến gặp coi đúng không.
Lúc đó có mặt tôi, óc tò mò thúc đẩy, tôi liền đi theo cha tôi xem Ngài dẫn ông khách lạ mặt đi đâu. Cả em Phiêu nhờ người gác thay và cùng đi. Bốn người chúng tôi đi dọc theo con đường giữa làng, đến ngã ba rẽ vào chợ (tôi quên không nói rõ là lúc đó mới vào khoảng 8 giờ sáng, chợ Ve đang họp). Ông khách hỏi cụ Xếp:
    - Thưa cụ, con muốn cúng tạ ơn ông thần ấy, cụ vui lòng cho con biết là nên mua hoa trái bánh quả nhang đèn như thế nào ?
Cụ Xếp cười:
    - Không biết ông thần tôi dẫn chú em đến có đúng như chú em muốn tìm không, vội gì mà mua đồ cúng. Thôi thì tạt qua chợ xem còn hoa huệ, chú em mua mấy bông cúng là đủ.
Cũng may là còn sớm nên hoa cũng còn (chợ làng tôi hồi đó cũng có bán hoa nhưng chỉ lèo tèo vài bông huệ, bông cúc hoặc bông sen thôi). Thân phụ tôi dẫn ông khách lạ tới nhà thờ. Mới bước qua ngưỡng cửa cuối, đã thấy ông khách nhìn chăm chăm lên bàn thờ chính, tay run run như muốn đánh rơi cả mấy bông huệ. Cụ Xếp chỉ vừa kịp hỏi: “Có phải ông thần này không ?” thì đã thấy ông khách Đại Vy không trả lời - miệng lẩm bẩm những gì nghe không rõ - khụy chân quỳ ngay xuống nền đất nhà thờ. Rồi cứ thế đi quỳ - không, phải nói là nửa quỳ nửa bò mới đúng - tiến lên Cung Thánh, tay vẫn lạy lia lịa. Đến bậc thềm cung Thánh - nơi có hàng lan can gỗ cho giáo dân quỳ rước lễ - khách dừng lại, chúng tôi vẫn theo đi sát sau lưng. Khách lại tiếp tục lạy như tế sao, miệng lẩm bẩm lớn hơn, tôi nghe câu được câu mất: “Lạy Ngài mớ bái. Con lạy tạ ơn Ngài. Con đội ơn Ngài...”. Hai tay khách vẫn nắm chặt mấy bông huệ mà lạy tưởng đến rụng hết cả bông. Một lúc khá lâu, cụ Xếp lên tiếng:
    - Vậy thì đúng ông thần này rồi phải không ? Để tôi cho chú em biết tên ông ấy: Đó là ông Thánh Giuse, quan thầy của làng tôi đó. Sao, chuyện như thế nào mà chú em cứ lạy ông Thánh ghê thế ?
Khách bừng tỉnh:
    - Thưa, để lát nữa xin phép cụ cho con về nhà cụ, con sẽ kể.
Rồi lại tiếp tục lạy. Sau đó, khách có vẻ muốn tìm bình cắm hoa, cụ Xếp bảo cứ để hoa lên lan can, sẽ có cậu giúp lễ ra nhận và cắm vào bình. Xong xuôi, khách mới dám đứng lên và đi... giật lùi tới hết bậc thang cuối nhà thờ mới dám quay lưng. Về nhà tôi, sau một tách trà nóng, khách kể:

Số là thế này: Cách đây hơn tháng, con bị đau bụng tháo dạ nặng lắm. Chiều tối hôm ấy, con hấp hối trên ổ rơm, tự nhiên nghe thấy tiếng rầm rập ngoài ngõ. Lạ một cái là con không những nghe rõ tiếng mà còn nhìn rõ - dù con đang nằm ở trong nhà - một đám quân vận đồ đen cầm giáo mác, có một ông tướng đội mũ cưỡi ngựa ô đi đầu. Tới cổng nhà con, ông tướng chỉ roi về phía con nói với đám quân lính: “Vào bắt thằng này”. Thế là tự nhiên con vùng đứng dậy đi ra cổng, còn nghe rõ tiếng vợ con của con khóc gọi theo: “Ới anh ơi, anh nỡ bỏ em bỏ con mà đi sao anh ơi !”. Tiếng khóc xa dần, con đã theo đám quân lính ra đường giữa làng và đi về phía Dũng Vy. Lạ lắm cụ ạ, thường ngày đi đường làng tới Đình Đại Vy xây chắn ngang đường, con phải đi đường vòng theo tường Đình mới tới đường đi xuống Cầu Ve, hôm ấy tự nhiên đám lính và con đi băng qua Đình mà chẳng thấy vướng víu gì. Đi tới Cầu Ve thì có tiếng quát dừng lại, chúng con dừng lại ở đầu cầu phía Tây. Ngẩng lên trông thấy ông Thánh lúc nãy cụ dẫn con đến gặp đang đứng trên nóc cổng Cầu Ve, con nghe rõ ông Thánh nói: “Trả thằng này về nhà nó. Cút đi !”. Vừa nói ông Thánh vừa cầm cành huệ chỉ vào con. Ông tướng mặt đen chẳng nói chẳng rằng quay đầu ngựa lại theo lối cũ. Đến đầu ngõ nhà con thì mấy tên quân đi cạnh con đẩy con một cái vào ngõ. Con đi đến gần cổng thấy trời đã sắp sáng, vợ con vẫn lăn lộn khóc gọi. Mở mắt ra, quay đầu nhìn lại vẫn thấy mình nằm trên ổ rơm. Bỗng nhiên thấy vợ con ngưng bặt tiếng khóc rồi vùng té chạy, gào to: “Ối chú ơi, anh chú bị quỷ nhập tràng rồi”. Con càng thấy lạ lắm, con có chết đâu mà bị quỷ nhập tràng. Em trai con nghe vợ con gọi, liền cầm con dao phay nhảy đứng dạng háng trên người con giơ cao con dao lên và hét: “Mày phải quỷ nhập tràng không ? Nói ngay, không tao chém”. Con muốn nói cho em nó biết nhưng không nói được vì cổ đã khô cứng. Con ngáp ngáp mồm chớp chớp mắt ra hiệu xin nước. Nó hiểu ra và lấy nước. Uống xong, con nói được và phều phào kể lại đầu đuôi cho cả nhà nghe. Đến lúc đó con mới biết là con đã chết từ chiều hôm trước và nếu nhà không nghèo quá thì đã được bó chiếu chôn ngay tối hôm qua rồi. Chiếu cũng không có chứ đừng nói là quan tài. Cũng may ! Và con biết được ông Thánh Giuse ở làng cụ đã cứu con, con đã hỏi cả xóm con ở nhưng không ai biết. Hôm nay mới quyết định xuống đây và được gặp cụ. Quý hóa quá ! Con cám ơn cụ.

Như đã nói ở trên, chuyện này có thật 100% vì chính tôi được chứng kiến, mặc dù hồi đó tôi còn nhỏ (14 tuổi). Sau này, tôi có được nghe thân phụ tôi kể lại mấy lần. Và một nhân chứng sống động nhất vẫn còn sống, đó là người em cô cậu của tôi: Phan Tự Phiêu hiện đang sinh sống ở Liên Khương - Đà Lạt. Kể lại chuyện này, tôi muốn nói với mọi người rằng sở dĩ tôi có được một đức tin rất mãnh liệt là cũng nhờ vào những chuyện tương tự củng cố, cho nên dù ở bất cứ thời điểm nào tôi luôn luôn khai rõ với chữ in hoa trong lý lịch, nơi mục tôn giáo: Thiên Chúa Giáo, một mục mà tôi đã thấy có nhiều người hay ghi: Không Tôn Giáo. Tôi lại nhớ đến lời Đức Kitô nói với Thomas: “Thomas, bởi vì con đã thấy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Bây giờ thì xin được thay vào tiếng “tôi” đơn lẻ bằng một đại từ xưng hô khác “chúng tôi”, bởi vì tôi và chúng tôi cũng chỉ là một: Đồng hương Dũng Vy. Vâng, chúng tôi - những người đã bước qua ngưỡng cửa “lục thập nhi nhĩ thuận” - xin được đặt ở đây một câu hỏi: Tiền nhân xứ Dũng là như thế đó, các lớp hậu duệ nghĩ sao ?

Hạ Chí 2000
19.06.2000

Tuesday, June 13, 2017

Thư hồi đáp về Cụ Đinh Văn Đỗng - Lam Thy Đinh Văn Diệm

Chào bạn Long Dinh

Dưới đây là một số những thông tin về gia thế cụ Đinh Văn Đỗng mà bạn đã hỏi. Blog đã liên hệ và tìm hiểu qua các ông Lam Thy Đinh Văn Diệm và ông Đinh Văn Thắng (Tony) và nhận được những ý kiến hồi đáp sau đây. Hy vọng sẽ giải đáp được phần nào nhưng thắc mắc của bạn. Thân chào.

Blog KYDV
----------

From: Thuc Dinh
 

Tue 6/13/2017 10:31 AM
To:

Tuesday, September 24, 2013

ĐÔI DÒNG TÂM SỰ - JM. Lam Thy ĐVD

ĐÔI DÒNG TÂM SỰ
JM. Lam Thy ĐVD.

Nhân dịp Giáo xứ Dũng Vy tổ chức trùng tu Thánh Đường (dựng Tượng đài Thánh Cả Giu-se Quan Thầy) và quy tập Nghĩa trang Giáo xứ, xin gửi đến toàn thể Giáo dân Dũng Vy trong và ngoài nước đôi dòng tâm sự:

Như tôi đã viết trong Kỷ Yếu Dũng Vy (vào những năm đầu thế kỷ XXI – năm 2000-2001), với tâm tình của người con xa quê hương luôn hướng về Quê Mẹ, đong đầy kỷ niệm ăm ắp Tình Quê, tôi luôn ao ước cho Giáo họ Dũng Vy (thuộc Giáo xứ Cẩm Giang – Địa phận Bắc Ninh) đã kiên cường trường tồn qua hơn một thế kỷ, sẽ ngày một thăng tiến trên hành trình loan báo Tin Mừng, mở mang Nước Chúa. Quả thực lòng khao khát của chúng tôi đã được đáp ứng, Giáo họ Dũng Vy nay đã trở thành Giáo xứ. Đó là một niềm vinh dự cho tất cả chúng ta.

Thánh Au-gus-ti-nô đã dạy: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người”. Một lời nói mới thoạt nghe thì thấy có vẻ không ổn, nhưng suy xét cho thấu đáo, thì quả thực đó là một chân lý. Ngay từ khi Đức Giê-su thiết lập Giáo Hội tiên khởi, với 12 Tông đồ nòng cốt (“Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê – Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi –, rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.” – xem “Mac-cô 3, 16-19”). Đặt giả thử nếu cả 12 môn đệ đó đều như Giu-đa It-ca-ri-ốt thì liệu công trình cứu độ của Thiên Chúa có thực hiện được không? Chắc chắn là không. Và vì chỉ có một Giu-đa It-ca-ri-ôt phản bội (không cộng tác), còn lại 11 môn đệ một lòng trung thành cộng tác mật thiết với Đức Giê-su Ki-tô, nên trải qua hơn 20 thế kỷ mới có một Giáo Hội Công Giáo với hàng tỉ tín hữu hiện diện trên khắp địa cầu như hiện nay.

Có thể nói được rằng Giáo dân Dũng Vy từ ngày tòng giáo vào cuối thế kỷ XIX (khoảng từ 1883 đến 1890), đã hết lòng tin tưởng và cộng tác với Thiên Chúa, với Giáo Hội, nên mới có một Giáo xứ Dũng Vy như ngày hôm nay. Không những thế, đời sống đạo của Giáo dân Dũng Vy cũng hết sức sốt sắng trong đời sống cầu nguyện (dâng lễ, đọc kinh sớm tối), trung kiên trong đời sống hoạt động nơi cộng đồng xã hội (từ bản quán đến nhiều tỉnh thành trong cả nước Việt Nam lẫn ở hải ngoại). Một minh chứng hùng hồn cho tinh thần sống đạo tốt đẹp đó là cho đến ngày nay, Giáo xứ Dũng Vy đã có được 4 Linh mục và một Phó tế. Đó là:

* Cha Giu-se Đinh Quốc Trụ, con ông bà Đinh Văn Túy (thuộc gia đình ô Lý Canh).
* Cha Giu-se Đinh Tấn Hoài + Cha Giuse Đinh Minh Hoàng, con ông bà Đinh Văn Hòa (thuộc gia đình ông Đinh Văn Đạo – ô Đường).
* Cha Giu-se Đinh Tuấn Việt, con ông bà Đinh Văn Goòng (gđ ô Đinh Văn Quỳnh). 
* Phó tế Phao-lô Bùi Ngọc Linh, con ông Bùi Bằng Đổng và Nguyễn Thị Ren (Ren là con ông Trùm Hiểm – Nguyễn Ích Niết). 

Ấy là chưa kể một số nữ tu: Sæur Đinh Thị Tuẩn (con cụ Chánh hội Tề – Đinh Văn Đẩu), Sæur Nguyễn Thị Riêng, em ông Nhận (con cụ Ngữ), Sæur Nguyễn Thị Tiên (quen gọi là cô Mầu, con cụ Khóa Hà), Sæur Nguyễn Thị Hùy (con ông bà Nguyễn Khắc Thiện), và còn một số nữa..., nhưng không nhớ được hết.

Nhờ đâu mà có sự cộng tác tốt đẹp đó? Chính là nhờ một nền tảng Đức Tin vững mạnh. Vâng, “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô). Nền tảng đức tin vững mạnh ấy có được phải chăng là do ân sủng Thiên Chúa trao ban? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong bài giảng ngày thứ tư 24-10-2012 tại quảng trường thánh Phê-rô, đã trả lời cho câu hỏi đó: “Đức tin là một ơn của Thiên Chúa, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người, tín thác nơi Thiên Chúa, là Đấng yêu thương nó.” Vậy thì phải nói chính Thiên Chúa đã ban Đức Tin cho chúng ta thông qua những cộng tác viên đắc lực của Người như Đức Maria, Thánh cả Giu-se, các Thánh Tông đồ. 

Các thánh Giáo phụ đã cho rằng “De Mariam nunquam satis” (nói về Đức Maria thì không bao giờ cùng). Quả thực con cái Mẹ trên khắp địa cầu muôn đời sẽ không đủ ngôn từ để có thể diễn tả cho hết được những đức tính cao vời khôn ví của Mẹ, mà qua đó Mẹ được hưởng những ân sủng đặc biệt Thiên Chúa đã dành cho Mẹ. Chỉ với đức tin mới có thể cảm nghiệm được Mẹ Maria đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể), là Mẹ Giáo Hội (mầu nhiệm phó thác dưới chân Thập giá, khi Đức Giê-su trao Thánh Gio-an cho Đức Mẹ, Người nói: “Thưa Bà, đây là con của Bà” – Ga 19, 26). Đức Mẹ còn là Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hoàn vũ, Nữ Vương mỗi gia đình Ki-tô Giáo. 

Còn Thánh cả Giu-se là Đấng Công Chính, là Đấng Bảo Trợ Giáo Hội, Bảo Trợ giới Lao động, Bảo Trợ các Gia đình Ki-tô Hữu. Giáo xứ Dũng Vy đã nhận Thánh Cả Giu-se làm Quan Thầy Bầu Cử thật vô cùng vinh dự. Thêm một đặc điểm là kể từ khi tòng giáo, toàn thể Giáo dân Dũng Vy đều lấy tên thánh là Maria (cho phụ nữ) và Giu-se (cho nam giới). Mãi cho tới sau thời điểm 1975, mới có một số trường hợp lấy tên thánh bổn mạng khác với truyền thống tốt đẹp đó, nhưng phần lớn vẫn giữ theo truyền thống.

Đó là tất cả những lý do khiến tôi gửi đến quý vị một truyện ngắn (“ĐIỆU RU NGÚT NGÀN”); 2 ký sự (“BẮC HÀNH KÝ THUẬT” và “BẮC HÀNH TẠP KÝ”) về công tác giảng dạy khóa Chân Lý IX (Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam) tại Giáo phận Bắc Ninh và Gp Bùi Chu, Thái Bình (có về thăm Dũng Vy 3 năm liền 2006-2007-2008); cùng với những bài chia sẻ về Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Cả Giu-se Quan Thầy (xc. 2 file đính kèm). Và cũng để minh họa thêm cho tâm tình của tôi, tôi xin kể lại hai phép lạ trong rất nhiều phép lạ mà Đức Mẹ và Thánh cả Giu-se đã ban cho Giáo xứ Dũng Vy:

+ Phép lạ thứ nhất do Đức Mẹ ban: Như đã kể trong Kỷ Yếu Dũng Vy số 1, năm 1949 quân Pháp chiếm đóng Dũng Vy. Tới đầu năm 1952, thì rút lên đóng ở núi Phật Tích (cách Dũng Vy khoảng vài cây số về phía đông nam). Khi rút, Đồn trưởng (sĩ quan Pháp) có chỉ thị cho ông Đinh Văn Loát (Trưởng ban Hương dũng) làm một cây đình liệu (cây cột bằng tre quấn rơm cao khoảng 10 mét) chôn ở cuối nhà thờ, tại khu đất nhà ông Câu, phía đông lô cốt quân sự (lô cốt xây ở gian giữa nhà quan cư), cách khoảng 7-8 mét. Khi có sự cố (bị địch tấn công), thì lấy dầu hôi (dầu hỏa) tưới vào cây đình liệu rồi đốt cháy, báo hiệu cho quân Pháp cứu viện. 

Ông Loát và đội Hương dũng mê tổ tôm, chắn cạ, có bao nhiêu dầu hôi dự trữ đem đốt đèn chơi bài hết. Tới 26 tháng chạp năm Tân Mão (22/01/1952 dl), VM tấn công, tìm dầu hỏa không có, không đốt được cây đình liệu báo động. Đội Hương dũng chỉ có khoảng 10 người do ông Loát chỉ huy, đành liều chết ra chống cự ở ngã ba đường làng (Cầu Giếng) phía đầu chợ Ve bên cạnh nhà ông Lý Súy và ông Thơ Thành. Ruộng rau cần nhà ông Đám Hà (đối diện nhà ô. Thơ Thành) bị cày nát vì trận chiến này. Cuối cùng thì cũng đẩy lui được VM. Sau Tết Nhâm Thìn (1952), anh Chẩm con bà Đám Tẹo (bà Đám Tẹo và ông Xếp là chị em đôi con dì ruột) kể lại như sau:

Biết được quân Pháp rút khỏi làng Dũng Vy, VM quyết định tấn công tiến chiếm. Tối hôm đó (22/01/1952), họ chia quân làm hai mũi: Một mũi tập trung ở nhà ông Đám Hiện (nội công) sẽ đánh theo đường làng từ cổng Cầu Cung tiến vào chợ Ve. Vừa tới chợ “thì bị một đoàn quân Pháp đông ơi là đông phản công kịch liệt, súng bắn như mưa bão, anh em đành rút lui, ngã lên ngã xuống ở ruộng rau cần nhà ông Đám Hà” (nguyên văn lời kể của anh Chẩm).

Mũi tiến công thứ hai từ Đồng Lạng tiến qua ngòi Cầu Ve (phía gần Bờ Cừ), đi thẳng lên Cầu Bạc, Đường Giồ, Lò Ngói, Cửa Ngõ. Khi tiến tới gần bờ tre làng (cách khoảng 100 mét) thì thấy một người đàn bà đội khăn trắng, mặc váy đầm (soirée) trắng thắt đai xanh. Bà đi lướt trên ngọn tre suốt dọc lũy tre làng, mỗi lần bà phất tay một cái thì có một luồng gió rất mạnh đẩy anh em ngã sấp mặt xuống ruộng. Nhiều lần như vậy, cứ lồm cồm bò dậy thì lại bị quật ngã bằng những luồng gió lạnh thấu xương từ tay bà phất ra. Sợ quá, đành rút êm, may là không ai bị thương hay chết.

+ Phép lạ thứ hai do Thánh Cả Giu-se ban: Chuyện này cũng đã kể trong tập Kỷ Yếu Dũng Vy số 1. Xin xem nguyên văn trong bút ký “XỨ DŨNG, QUÊ TÔI” có đăng trên blog “Kỷ Yếu Dũng Vy” mục “Bài đã đăng 2013 – January”. Chuyện khá dài, xin tóm tắt lại: 

Vào cuối năm 1952, chú em Phan Tự Phiêu (con bà Phiêu, cô ruột của tôi) là Hương dũng (lính làng) đang gác ở cổng Cầu Ve thì có một người khoảng trên 30 tuổi từ làng Đại Vy xuống, hỏi thăm “miếu thờ ông Thần to lớn, râu tóc bạc phơ, mặc áo nâu, tay trái bế em bé đẹp như Tây lai, tay phải cầm cành huệ” (nguyên văn lời nói của anh ta). Nhờ ông Xếp dẫn anh ta đến nhà thờ, nhìn lên tượng Thánh cả Giu-se thì anh ta quỳ gối, sấp mặt xuống và cứ thế đi bằng hai đầu gối lên tận Cung Thánh, miệng thì không ngớt kêu khấn: “Lạy Ngài mớ bái. Con lạy tạ ơn Ngài. Con đội ơn Ngài...”. Sau đó anh ta kể lại cho ông Xếp và tôi nghe câu chuyện hết sức cảm động: Anh ta bị dịch tả, khi hấp hối (sắp chết) thì thấy có âm binh vào bắt đi, bắt hết ở Đại Vy thì xuống Dũng Vy. Đến đầu cầu bắc qua ngòi Cầu Ve thì thấy ông Thần (như anh ta nói ở trên) đứng trên nóc cổng Cầu Ve quát: “Trả thằng này về nhà nó. Cút đi!”. Thế là anh ta khỏi bệnh và tìm xuống Dũng Vy để tạ ơn.

Những nhân vật chính trong 2 truyện này đều là người ngoại đạo, chưa hề biết tới hình ảnh Thánh cả Giu-se và Đức Mẹ Maria, vậy mà miêu tả rất rõ và đúng hệt. Điều này cho thấy phép lạ là có thật 100%. Tôi chỉ là người thuật lại câu chuyện, không hề thêm bớt một chi tiết nhỏ nào.

Saigon, cuối Thu Quý Tỵ (9/2013)


ĐÍNH KÈM MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN:

Riêng về tấm hình Ban Biên tập KỶ YẾU DŨNG VY, trên trang blog KYDV có ghi tên sai một nhân vật (thay vì ô Sửu lại ghi là ô Bảo – ô Đinh Văn Bảo hồi làm KYDV năm 2000-2001, đã định cư ở Mỹ). Nay xin đính chính theo thứ tự từ trái qua: ô Diệm – ô Tòng – ô Sửu – ô Đường – ô Đích).

-----------
Ghi chú của KYDV: Bài viết của tác giả JM Lam Thy Đinh Văn Diệm gồm: BỨC TÂM THƯ, ĐÔI DÒNG TÂM SỰ, BẮC HÀNH KÝ THUẬT, BẮC HÀNH TẠP KÝ cùng những hình ảnh đính kèm. Qúy vị có thể xem hoặc tải xuống tại Hình Ảnh - Văn Bản KYDV - Đinh Văn Diệm

KYDV xin được trích đăng thành từng bài liên tiếp.

1. BỨC TÂM THƯ
2. ĐÔI DÒNG TÂM SỰ
3. BẮC HÀNH KÝ THUẬT
4. BẮC HÀNH TẠP KÝ

Saturday, January 19, 2013

XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)

Phía Bắc của làng là cả một cánh đồng màu mỡ hàng năm 2 vụ chiêm + mùa cung ứng lương thực cho cả làng. Ngòi Cầu Ve tính từ cổng làng phía Tây (gọi là cổng Cầu Ve) chảy thẳng lên phía Bắc, gặp nhánh sông từ Tây Bắc (Đồng Xép) chảy xuống hợp lưu tại Nghè Mậy (còn gọi là Nghè Tam Giang) rồi ôm lấy cánh đồng làng chảy thẳng về Đông. Trên cánh đồng bao la, biết bao di tích, nào là Nghè Mậy, Cửa Ngõ, Đường Làng, Lò Ngói, Cầu Bạc, Đường Giồ, Đường Ông Soi, Bờ Cừ, Mả Chúa... nhiều quá không thể nói hết lai lịch. Chỉ xin nói về Nghè Mậy. Tại sao lại là Nghè Mậy ? Chữ Nghè ở đây, theo từ nguyên, được hiểu là một ngôi đền (chứ không phải quan Nghè - một chức danh của Tiến Sĩ thuở xưa) thờ một vị thần nào đó (Nghè Mậy thờ Thần Sông). Đền này thường là lớn hơn Miếu và nhỏ hơn Chùa, cách kiến trúc gần giống như Tam quan ở các Đình, Chùa. Chung quanh Nghè, những gốc si sù sì tỏa bóng xuống mặt nước. Tam giang là nơi nghỉ mát lý tưởng cho nông phu vào những buổi trưa oi nồng. Theo truyền khẩu, Nghè Mậy thờ một nữ thần. Một hôm ông tổ của ông Đinh Văn Khiên (Trùm Sừ) vốn là một phù thủy có hạng (hồi đó Dũng Vy chưa tòng giáo), ghé Nghè Mậy nghỉ mát. Chẳng biết nổi hứng sao đó, lấy hết chuối cúng xuống ăn, úp hết bát nhang xuống đất (ý hẳn muốn ghẹo chơi... nữ thần !). Một trận chiến nổ ra ào ào như bão tố, lá si chung quanh đều rụng bằng sạch. Biết là gặp phải tay chẳng vừa, lại chiến đấu tại phòng tuyến của đối phương rất bất lợi, ngài Phù Thủy đành một tay bắt ấn, một tay chèo thuyền, rồi lên bờ lui về Cửa Ngõ - cứ điểm của mình. Về tới Cửa Ngõ, tính đã chắc ăn, định bụng phản công mãnh liệt giành chiến thắng (lòng vẫn nghĩ: đối phương dù sao cũng chỉ là... đàn bà !). Ai dè một cành tre ở Cửa Ngõ từ trên cao quất thẳng xuống mặt, hất tung chiếc nón dứa quai thao trên đầu (nữ thần tác quái đó !). Theo phản xạ tự nhiên, ngài Phù Thủy đưa ngay bàn tay đang giữ ấn ra chụp lấy cái nón. Ấn đã buông, hết hiệu lực, âm binh tan tác, thầy bị quật chỏng gọng, mồm ứa máu. Thảm bại ! Sau này, đành đem âm binh ra ký gởi tại Lã Vôi và không truyền nghề cho con cháu nữa.

Từ Nghè Mậy tới Bờ Cừ (cống thoát nước khi đồng bị úng thủy, lại ngăn được nước khi đồng bị khô hạn, rất khoa học), con Ngòi Cầu Ve ở quãng này được gọi là Tào Khê. Bên bờ Bắc của Tào Khê là Đồng Lạng (cũng là do một chi họ của Dũng Vy tách ra). Tiến thêm về hướng Bắc một chút, có cả một dãy núi vòng cung chắn ngang (gồm các ngọn núi Chè, Cổ Miễu, Bát Vạn, Phật Tích, Long Khám). Ở núi Chè (Trà Sơn), ngoài tích chùa Ba Cóc, còn một sự tích có trong chính sử: Bà Chúa Chè (chính là Tuyên Phi Đặng Thị Huệ, vợ Chúa Trịnh Khải - đời Lê). Bát Vạn có Chùa Bách Môn (có đủ 100 cửa - làm theo kiểu bức bàn và mở ra đủ 4 hướng). Phật Tích có một bàn cờ bằng đá trên đỉnh núi (tục truyền có tiên về đánh cờ - vì thế mới gọi quả núi này là Phật Tích). Bên cạnh bàn cờ là một hồ nước trong vắt mà vào thập kỷ 30-40 (thế kỷ XX). Bảo Đại - Vua cuối cùng Triều Nguyễn - thường hay cùng Nam Phương Hoàng Hậu về tắm ở đây. Đến Long Khám lại có chùa Long Giáng được miêu tả rất tỉ mỉ và nên thơ do ngòi bút trữ tình tài hoa Khái Hưng Trần Khánh Giư ở tác phẩm đầu tay (cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn): Hồn Bướm Mơ Tiên. Phía Tây Nam qua làng Đại Trung, tới sát bờ đê sông Đuống, là làng Phù Đổng. Học sử Việt Nam, không ai quên được cậu bé Phù Đổng (Thánh Gióng) lớn nhanh như thổi khi nghe Sứ giả Triều đình tuyển quân tướng phá giặc Ân đang xâm chiếm nước ta. Cậu cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt phá giặc. Giặc nếu không chết vì roi sắt thì cũng chết vì lửa do ngựa sắt phun. Đánh giặc đến gẫy cả roi sắt giặc vẫn chưa yên, Thánh Gióng liền nhổ cả tre đằng ngà (một loại tre rất cứng và dẻo dai) mà đánh giặc. Đến khi toàn thắng thì cũng vừa lúc Thánh Gióng phi ngựa tới chân núi Sóc Sơn. Ngài phóng thẳng lên đỉnh núi rồi cả người lẫn ngựa thăng thiên ! Trong chính sử chỉ ghi khi giặc Ân bên Tầu xâm chiếm nước ta thì có vị tướng tài giỏi là Phù Đổng Thiên Vương nổi lên đánh đuổi ra khỏi bờ cõi, giữ yên non sông gấm vóc. Câu chuyện kể trên thuộc dã sử, mang tính huyền hoặc, thần thánh hóa vị anh hùng cứu nước. Nhưng lạ một điều là suốt dọc cánh đồng từ làng Phù Đổng, qua Đại Trung, Phù Chẩn, Đồng Xép tới Lim (địa danh nổi tiếng của Kinh Bắc: “Trai Cầu Vồng, Yên Thế - Gái Nội Duệ, Cầu Lim”, đồng thời cũng là nơi hàng năm mở hội hát Quan Họ Bắc Ninh), có những vũng nước khá lớn (chưa đủ lớn để gọi là ao) cách nhau khoảng vài chục mét chạy chữ chi giống như dấu chân của một động vật khổng lồ để lại trên đường đi của nó. Theo truyền ngôn thì đó là dấu chân ngựa Thánh Gióng. Chẳng hiểu vì sao mà trải qua hàng ngàn năm, các vũng nước lớn đó không ai lấp kín được (các cụ thường nói đến mùa cấy, nông dân lấp đất trồng lúa, nhưng khi gặt xong, trâu bò lại cứ nhè đúng những chỗ đó mà đằm mình xuống, rồi thì những chỗ đó lại thành vũng nước cho chúng tắm rửa, ngâm mình, cho tới năm sau, nông dân lại lấp, và cứ vậy luân chuyển hết năm này qua năm khác, các vũng nước chữ chi vẫn tồn tại cùng thiên nhiên cẩm tú). Có một đặc điểm là ở làng Phù Chẩn, nơi ngựa Thánh Gióng đi qua, tre một nửa làng có thuần một màu vàng cả cây lẫn lá (tre vẫn sống, vẫn phát triển, chứ không phải vàng úa mà chết đi). Đã có người đem tre ở nửa làng xanh tươi sang trồng bên nửa làng vàng úa, đến khi tre phát triển lại vẫn cứ đặc điểm của cả lá lẫn cây đều vàng. Làm ngược lại, đem tre bên vàng trồng sang bên xanh, thì tre lại xanh. Thật là lạ lùng và thú vị với một huyền sử: Tại ngựa Thánh Gióng trên đường đánh giặc, đã phun lửa cháy mất nửa làng Phù Chẩn nên sau này tre của nửa làng cháy cứ có màu vàng. Chúng ta có quyền hoài nghi về tính huyền hoặc của truyền thuyết, nhưng thực tế thì Phù Chẩn lại có một tên gọi rất ấn tượng: làng Cháy. Xin kể thêm một chuyện vui có thật. Có 2 toán thợ gặt - một của Đại Vy, một của Phù Chẩn - cùng đi gặt thuê cho một chủ ở Dũng Vy. Đến bữa cơm trưa, một thợ gặt Đại Vy muốn ăn cơm cháy (cho thơm miệng) liền nói với người ngồi ngoài xới cơm (chắc cũng chỉ chủ ý nói cho vui): “Đào Phù Chẩn lên mà quật” (đào cháy lên mà ăn), thế là cháy chưa kịp đào lên đã thấy liềm hái dựng lên tua tủa: “Nào, Phù Chẩn đây, có ngon thì cứ đào lên mà quật !). Cũng may là chủ nhà Dũng Vy khéo can, không thì lại bị ngựa Thánh Gióng phun cháy cả chủ lẫn thợ.

  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)