Nói về Thôn Ngoài, xin khởi từ ngày tòng giáo. Nguyên cả cánh đồng màu mỡ ôm lấy lũy tre làng phía Bắc và một phần phía Đông, là đất canh tác của cả 2 thôn: Thôn Ngoài và Thôn Trong. Còn Thôn Đinh thì có cánh đồng phía Nam của làng trải dài đến sát bờ đê sông Đuống. Tất nhiên cánh đồng nào cũng có tư điền và công thổ. Tư điền là của riêng từng nhà dân. Còn công điền công thổ là ruộng đất chung của làng. Công điền của 2 Thôn Ngoài và Thôn Trong nằm ở Đường Giồ, nơi những thửa ruộng được xếp vào loại Thượng đẳng điền. Do có chia thôn nên cũng phải chia công điền theo tỷ lệ dân số. Dân Thôn Ngoài ít nên nhận được phần công điền nhỏ hơn, đó cũng là lẽ thường. Nhưng càng về sau càng bị chèn ép theo cái thế “cả vú lấp miệng em”, “cá lớn nuốt cá bé” của Thôn Trong. Tức nước vỡ bờ - việc lên quan mà quan thì cứ “nắm kẻ có tóc”, chứ ai lại “nắm kẻ trọc đầu”. Cho nên việc kiện tụng cứ mãi là “kiện củ khoai”. Mà thời gian càng kéo dài thì “kẻ có tóc” càng có lợi thế. Thôn Ngoài càng lúc càng bị lép vế, đành dùng mưu trí, bám lấy các vị Cố Đạo vì ở thời điểm này, các vị ấy có rất nhiều uy thế với Chính quyền. Một thỏa thuận được giao kết: Dân Thôn Ngoài thắng kiện thì sẽ tòng giáo. Đó là thời gian Đức Giám Mục Chỉnh đang đảm nhiệm Tông Tòa Bắc Ninh. Thôn Ngoài tòng giáo từ đó (vào khoảng thập niên 80 thế kỷ XVIII). Người Thầy tiên khởi được cử về dạy kinh hạt giáo lý cùng các nghi thức tế lễ Kitô Giáo là Thầy già Tín. Vì thế, sau này khi Thầy già Tín qua đời thì cả thôn đều chọn ngày 20-11 âm lịch (ngày tạ thế của Thầy) làm ngày giỗ chung, coi như giỗ Tổ vậy. Ngôi Thánh Đường đầu tiên năm gian lợp tranh được dựng lên trên khu đất rộng khoảng nửa hécta nằm gần phía Đông Thôn Ngoài, phía Bắc giáp lũy tre làng, phía Nam giáp con đường Đông Tây giữa làng. Nhà thờ làm dọc theo hướng Đông Tây, gần với đường giữa làng, hai đầu hồi trát vách đất kín, hai hướng Nam và Bắc trổ nhiều cửa phần lớn đều bằng phên tre. Về sau cũng trên nền cũ, nhà thờ được xây bằng gạch lợp ngói cũng năm gian, làm cửa gỗ suốt hai hướng Nam Bắc (cửa bức bàn), hai đầu hồi xây kín có tô những hình cửa giả. Còn làm thêm hai tảo mạc Đông Tây thành hình chữ U hướng về Nam, sát đường làng có xây tường và trổ cổng, đối diện với cổng - bên kia đường làng - xây một cái giếng khá lớn, đường kính lòng giếng khoảng 2m. Giếng sau này không dùng được vì liền với ao làng, nước bị ô nhiễm nặng. Lối kiến trúc này vẫn dựa trên nền kiến trúc cổ Đông Phương và mang phong cách VN (kiến trúc Đình) khá rõ nét. Tuy nhiên, nét hoành tráng thanh thoát của phong cách kiến trúc Tây Phương cũng đã được manh nha (nhà thờ và hai tảo mạc đều dùng tường đứng, mái phẳng và thẳng góc, chứ không dùng kiểu mái cong, tường trạm trỗ...). Đến thời Cha J.M Nguyễn Khắc Mẫn về làm chính xứ, hai tảo mạc được rỡ đi (bán cho 2 người: Ô. Trùm Đụng Nguyễn Đình Sính - và ông Xếp - Đinh Văn Khúc). Tới khoảng năm 1938, cha chính Mẫn hợp cùng dân họ xây dựng ngôi Thánh Đường theo hướng Bắc (đầu nhà thờ) Nam (cuối nhà thờ) ở chính giữa khuôn viên đất. Ngôi nhà thờ 5 gian cũ vẫn để lại làm trường học (đến đầu năm 1952 thì bị phá bỏ do chính biến, các cụ gom góp lại đem vào trùng tu ngôi nhà xứ cũng đã xuống cấp nặng nề. Ngôi nhà xứ được xây lại có ghi trên bậu cửa chính hướng Nam: “Trọng Thu Nhâm Thìn - 1952” tồn tại đến ngày nay). Thánh Đường mới được khánh thành năm 1939 mang phong cách Thánh Đường Phương Tây (La Mã), với thời điểm đó phải nói là rất uy nghi tráng lệ nổi tiếng khắp vùng. Nếu đem so với nhà thờ Cẩm Giang thì nhà thờ Dũng Vy đã cách tân hoàn toàn. Nhà thờ Cẩm Giang còn mang đậm dấu ấn cổ Đông Phương, cả bên ngoài lẫn bên trong (như bàn thờ vẫn còn sơn son thiếp vàng) thì ở Dũng Vy từ bàn thờ đến tượng Thánh đều được xây đắp, tô đúc rất đẹp. Phía Bắc, đầu nhà thờ là nhà Chung với ngôi nhà chính cũng 5 gian xây hướng Nam. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ ngôi nhà này xây theo lối cổ, chạy hiên đủ 4 mặt, trong nhà thì làm trần bằng cót và hoa văn trang trí được tượng hình bằng Dịch Số (ở giữa trần là hình âm dương, tứ phía là các chữ Càn ☰, Khảm ☵, Cấn ☶, Chấn ☳, Tốn ☴, Ly ☲, Khôn ☷, Đoài ☱ đủ bát quái tự viết đúng theo lối chữ triện của Dịch số) nhìn tổng thể thì nhà Chung + Nhà thờ + Trường học (Nhà thờ cũ) hợp thành chữ Công 工rất có ý nghĩa (xin mở ngoặc nói thêm về Cha Chính Mẫn: Ngài có bốn nghĩa tử là Công, Minh, Chính, Trực)
Wednesday, January 23, 2013
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
Thu hẹp phạm vi bài
viết này, xin nói về Thôn Ngoài - Thôn Giáo với Ngôi
Thánh Đường 60 tuổi vừa được trùng tu năm 1999 - cũng
chính là cái nôi kẻ viết bài này chào đời và được
nuôi dưỡng, ấp ủ cả quãng đời niên thiếu. Một ấn
tượng sâu sắc nhất đối với tôi là năm khánh thành
Ngôi Thánh Đường Dũng Vy cũng là năm tôi cất tiếng
khóc chào đời (1939 - Kỷ Mão). Đó cũng chính là năm chú
ruột của tôi (ông Đinh Văn Sách) về làng mở tiệc khao
mừng chức chánh quản (một chức vụ tương đương với
Quan Tứ phẩm trong Triều đình Phong kiến). Biết bao nhiêu
cảm xúc, biết bao nhiêu hồi ức, hoài tưởng, kỷ niệm
dồn dập xô tới như những ngọn triều cứ càng lúc
càng lớn, càng lúc càng trào dâng. Ký ức thì thật nhiều
nhưng không hiểu tôi còn đủ khả năng ghi lại đầy đủ
và có trình tự được như
một cuốn phim không ? Vẫn tràn đầy những màu hồng của
tuổi ngọc và màu xanh lớp lớp của hy vọng thanh xuân.
Nói về Thôn Ngoài, xin khởi từ ngày tòng giáo. Nguyên cả cánh đồng màu mỡ ôm lấy lũy tre làng phía Bắc và một phần phía Đông, là đất canh tác của cả 2 thôn: Thôn Ngoài và Thôn Trong. Còn Thôn Đinh thì có cánh đồng phía Nam của làng trải dài đến sát bờ đê sông Đuống. Tất nhiên cánh đồng nào cũng có tư điền và công thổ. Tư điền là của riêng từng nhà dân. Còn công điền công thổ là ruộng đất chung của làng. Công điền của 2 Thôn Ngoài và Thôn Trong nằm ở Đường Giồ, nơi những thửa ruộng được xếp vào loại Thượng đẳng điền. Do có chia thôn nên cũng phải chia công điền theo tỷ lệ dân số. Dân Thôn Ngoài ít nên nhận được phần công điền nhỏ hơn, đó cũng là lẽ thường. Nhưng càng về sau càng bị chèn ép theo cái thế “cả vú lấp miệng em”, “cá lớn nuốt cá bé” của Thôn Trong. Tức nước vỡ bờ - việc lên quan mà quan thì cứ “nắm kẻ có tóc”, chứ ai lại “nắm kẻ trọc đầu”. Cho nên việc kiện tụng cứ mãi là “kiện củ khoai”. Mà thời gian càng kéo dài thì “kẻ có tóc” càng có lợi thế. Thôn Ngoài càng lúc càng bị lép vế, đành dùng mưu trí, bám lấy các vị Cố Đạo vì ở thời điểm này, các vị ấy có rất nhiều uy thế với Chính quyền. Một thỏa thuận được giao kết: Dân Thôn Ngoài thắng kiện thì sẽ tòng giáo. Đó là thời gian Đức Giám Mục Chỉnh đang đảm nhiệm Tông Tòa Bắc Ninh. Thôn Ngoài tòng giáo từ đó (vào khoảng thập niên 80 thế kỷ XVIII). Người Thầy tiên khởi được cử về dạy kinh hạt giáo lý cùng các nghi thức tế lễ Kitô Giáo là Thầy già Tín. Vì thế, sau này khi Thầy già Tín qua đời thì cả thôn đều chọn ngày 20-11 âm lịch (ngày tạ thế của Thầy) làm ngày giỗ chung, coi như giỗ Tổ vậy. Ngôi Thánh Đường đầu tiên năm gian lợp tranh được dựng lên trên khu đất rộng khoảng nửa hécta nằm gần phía Đông Thôn Ngoài, phía Bắc giáp lũy tre làng, phía Nam giáp con đường Đông Tây giữa làng. Nhà thờ làm dọc theo hướng Đông Tây, gần với đường giữa làng, hai đầu hồi trát vách đất kín, hai hướng Nam và Bắc trổ nhiều cửa phần lớn đều bằng phên tre. Về sau cũng trên nền cũ, nhà thờ được xây bằng gạch lợp ngói cũng năm gian, làm cửa gỗ suốt hai hướng Nam Bắc (cửa bức bàn), hai đầu hồi xây kín có tô những hình cửa giả. Còn làm thêm hai tảo mạc Đông Tây thành hình chữ U hướng về Nam, sát đường làng có xây tường và trổ cổng, đối diện với cổng - bên kia đường làng - xây một cái giếng khá lớn, đường kính lòng giếng khoảng 2m. Giếng sau này không dùng được vì liền với ao làng, nước bị ô nhiễm nặng. Lối kiến trúc này vẫn dựa trên nền kiến trúc cổ Đông Phương và mang phong cách VN (kiến trúc Đình) khá rõ nét. Tuy nhiên, nét hoành tráng thanh thoát của phong cách kiến trúc Tây Phương cũng đã được manh nha (nhà thờ và hai tảo mạc đều dùng tường đứng, mái phẳng và thẳng góc, chứ không dùng kiểu mái cong, tường trạm trỗ...). Đến thời Cha J.M Nguyễn Khắc Mẫn về làm chính xứ, hai tảo mạc được rỡ đi (bán cho 2 người: Ô. Trùm Đụng Nguyễn Đình Sính - và ông Xếp - Đinh Văn Khúc). Tới khoảng năm 1938, cha chính Mẫn hợp cùng dân họ xây dựng ngôi Thánh Đường theo hướng Bắc (đầu nhà thờ) Nam (cuối nhà thờ) ở chính giữa khuôn viên đất. Ngôi nhà thờ 5 gian cũ vẫn để lại làm trường học (đến đầu năm 1952 thì bị phá bỏ do chính biến, các cụ gom góp lại đem vào trùng tu ngôi nhà xứ cũng đã xuống cấp nặng nề. Ngôi nhà xứ được xây lại có ghi trên bậu cửa chính hướng Nam: “Trọng Thu Nhâm Thìn - 1952” tồn tại đến ngày nay). Thánh Đường mới được khánh thành năm 1939 mang phong cách Thánh Đường Phương Tây (La Mã), với thời điểm đó phải nói là rất uy nghi tráng lệ nổi tiếng khắp vùng. Nếu đem so với nhà thờ Cẩm Giang thì nhà thờ Dũng Vy đã cách tân hoàn toàn. Nhà thờ Cẩm Giang còn mang đậm dấu ấn cổ Đông Phương, cả bên ngoài lẫn bên trong (như bàn thờ vẫn còn sơn son thiếp vàng) thì ở Dũng Vy từ bàn thờ đến tượng Thánh đều được xây đắp, tô đúc rất đẹp. Phía Bắc, đầu nhà thờ là nhà Chung với ngôi nhà chính cũng 5 gian xây hướng Nam. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ ngôi nhà này xây theo lối cổ, chạy hiên đủ 4 mặt, trong nhà thì làm trần bằng cót và hoa văn trang trí được tượng hình bằng Dịch Số (ở giữa trần là hình âm dương, tứ phía là các chữ Càn ☰, Khảm ☵, Cấn ☶, Chấn ☳, Tốn ☴, Ly ☲, Khôn ☷, Đoài ☱ đủ bát quái tự viết đúng theo lối chữ triện của Dịch số) nhìn tổng thể thì nhà Chung + Nhà thờ + Trường học (Nhà thờ cũ) hợp thành chữ Công 工rất có ý nghĩa (xin mở ngoặc nói thêm về Cha Chính Mẫn: Ngài có bốn nghĩa tử là Công, Minh, Chính, Trực)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)
Nói về Thôn Ngoài, xin khởi từ ngày tòng giáo. Nguyên cả cánh đồng màu mỡ ôm lấy lũy tre làng phía Bắc và một phần phía Đông, là đất canh tác của cả 2 thôn: Thôn Ngoài và Thôn Trong. Còn Thôn Đinh thì có cánh đồng phía Nam của làng trải dài đến sát bờ đê sông Đuống. Tất nhiên cánh đồng nào cũng có tư điền và công thổ. Tư điền là của riêng từng nhà dân. Còn công điền công thổ là ruộng đất chung của làng. Công điền của 2 Thôn Ngoài và Thôn Trong nằm ở Đường Giồ, nơi những thửa ruộng được xếp vào loại Thượng đẳng điền. Do có chia thôn nên cũng phải chia công điền theo tỷ lệ dân số. Dân Thôn Ngoài ít nên nhận được phần công điền nhỏ hơn, đó cũng là lẽ thường. Nhưng càng về sau càng bị chèn ép theo cái thế “cả vú lấp miệng em”, “cá lớn nuốt cá bé” của Thôn Trong. Tức nước vỡ bờ - việc lên quan mà quan thì cứ “nắm kẻ có tóc”, chứ ai lại “nắm kẻ trọc đầu”. Cho nên việc kiện tụng cứ mãi là “kiện củ khoai”. Mà thời gian càng kéo dài thì “kẻ có tóc” càng có lợi thế. Thôn Ngoài càng lúc càng bị lép vế, đành dùng mưu trí, bám lấy các vị Cố Đạo vì ở thời điểm này, các vị ấy có rất nhiều uy thế với Chính quyền. Một thỏa thuận được giao kết: Dân Thôn Ngoài thắng kiện thì sẽ tòng giáo. Đó là thời gian Đức Giám Mục Chỉnh đang đảm nhiệm Tông Tòa Bắc Ninh. Thôn Ngoài tòng giáo từ đó (vào khoảng thập niên 80 thế kỷ XVIII). Người Thầy tiên khởi được cử về dạy kinh hạt giáo lý cùng các nghi thức tế lễ Kitô Giáo là Thầy già Tín. Vì thế, sau này khi Thầy già Tín qua đời thì cả thôn đều chọn ngày 20-11 âm lịch (ngày tạ thế của Thầy) làm ngày giỗ chung, coi như giỗ Tổ vậy. Ngôi Thánh Đường đầu tiên năm gian lợp tranh được dựng lên trên khu đất rộng khoảng nửa hécta nằm gần phía Đông Thôn Ngoài, phía Bắc giáp lũy tre làng, phía Nam giáp con đường Đông Tây giữa làng. Nhà thờ làm dọc theo hướng Đông Tây, gần với đường giữa làng, hai đầu hồi trát vách đất kín, hai hướng Nam và Bắc trổ nhiều cửa phần lớn đều bằng phên tre. Về sau cũng trên nền cũ, nhà thờ được xây bằng gạch lợp ngói cũng năm gian, làm cửa gỗ suốt hai hướng Nam Bắc (cửa bức bàn), hai đầu hồi xây kín có tô những hình cửa giả. Còn làm thêm hai tảo mạc Đông Tây thành hình chữ U hướng về Nam, sát đường làng có xây tường và trổ cổng, đối diện với cổng - bên kia đường làng - xây một cái giếng khá lớn, đường kính lòng giếng khoảng 2m. Giếng sau này không dùng được vì liền với ao làng, nước bị ô nhiễm nặng. Lối kiến trúc này vẫn dựa trên nền kiến trúc cổ Đông Phương và mang phong cách VN (kiến trúc Đình) khá rõ nét. Tuy nhiên, nét hoành tráng thanh thoát của phong cách kiến trúc Tây Phương cũng đã được manh nha (nhà thờ và hai tảo mạc đều dùng tường đứng, mái phẳng và thẳng góc, chứ không dùng kiểu mái cong, tường trạm trỗ...). Đến thời Cha J.M Nguyễn Khắc Mẫn về làm chính xứ, hai tảo mạc được rỡ đi (bán cho 2 người: Ô. Trùm Đụng Nguyễn Đình Sính - và ông Xếp - Đinh Văn Khúc). Tới khoảng năm 1938, cha chính Mẫn hợp cùng dân họ xây dựng ngôi Thánh Đường theo hướng Bắc (đầu nhà thờ) Nam (cuối nhà thờ) ở chính giữa khuôn viên đất. Ngôi nhà thờ 5 gian cũ vẫn để lại làm trường học (đến đầu năm 1952 thì bị phá bỏ do chính biến, các cụ gom góp lại đem vào trùng tu ngôi nhà xứ cũng đã xuống cấp nặng nề. Ngôi nhà xứ được xây lại có ghi trên bậu cửa chính hướng Nam: “Trọng Thu Nhâm Thìn - 1952” tồn tại đến ngày nay). Thánh Đường mới được khánh thành năm 1939 mang phong cách Thánh Đường Phương Tây (La Mã), với thời điểm đó phải nói là rất uy nghi tráng lệ nổi tiếng khắp vùng. Nếu đem so với nhà thờ Cẩm Giang thì nhà thờ Dũng Vy đã cách tân hoàn toàn. Nhà thờ Cẩm Giang còn mang đậm dấu ấn cổ Đông Phương, cả bên ngoài lẫn bên trong (như bàn thờ vẫn còn sơn son thiếp vàng) thì ở Dũng Vy từ bàn thờ đến tượng Thánh đều được xây đắp, tô đúc rất đẹp. Phía Bắc, đầu nhà thờ là nhà Chung với ngôi nhà chính cũng 5 gian xây hướng Nam. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ ngôi nhà này xây theo lối cổ, chạy hiên đủ 4 mặt, trong nhà thì làm trần bằng cót và hoa văn trang trí được tượng hình bằng Dịch Số (ở giữa trần là hình âm dương, tứ phía là các chữ Càn ☰, Khảm ☵, Cấn ☶, Chấn ☳, Tốn ☴, Ly ☲, Khôn ☷, Đoài ☱ đủ bát quái tự viết đúng theo lối chữ triện của Dịch số) nhìn tổng thể thì nhà Chung + Nhà thờ + Trường học (Nhà thờ cũ) hợp thành chữ Công 工rất có ý nghĩa (xin mở ngoặc nói thêm về Cha Chính Mẫn: Ngài có bốn nghĩa tử là Công, Minh, Chính, Trực)
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment