Monday, March 9, 2020

Sắc phong - giá trị và hướng bảo tồn

Sắc phong - giá trị và hướng bảo tồn

10/11/2017 15:36 
 
Bằng những nỗ lực của cơ quan chuyên môn và các địa phương, Bắc Ninh hiện còn bảo lưu được số lượng sắc phong tương đối lớn. Những giá trị của sắc phong góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu lịch sử, văn hoá của quê hương, đất nước.
 
Sắc phong là một loại văn bản đặc biệt do vua trực tiếp ban cho các làng xã, gia đình, cá nhân. Một cá nhân hoặc tập thể khi được vua ban sắc thì không chỉ là vinh dự mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa. Ngoài việc được nhà nước, chính quyền công nhận tôn vinh còn  được cả cộng đồng trân trọng. Ngày nay, sắc phong vẫn được các địa phương, dòng họ, gia đình trân trọng bởi nó chứa đựng nhiều giá trị, ý nghĩa về lịch sử, văn hoá, mỹ thuật… Trong các đình làng, cuốn thần phả và sắc phong được coi là những vật báu của cả cộng đồng dân cư nên những tài liệu này thường được gọi là “ngọc phả”, “thần sắc”.
Kết quả khảo sát sơ bộ, trên địa bàn tỉnh hiện còn lưu giữ được khoảng hơn 2.189 đạo sắc phong. Trong đó, thành phố Bắc Ninh có 318 đạo, thị xã Từ Sơn có 292 đạo, Tiên Du có 95 đạo, Gia Bình có 233 đạo, Lương Tài là 290 đạo, Quế Võ có 127 đạo, Yên Phong có 454 và Thuận Thành đang lưu giữ 380 đạo sắc phong. Trên thực tế, trong nhiều làng xã, gia đình, nhà thờ họ vẫn còn đang cất giữ sắc phong nhưng chưa được điều tra nên số lượng có thể còn cao hơn. Về giá trị của sắc phong, theo giới chuyên môn đánh giá là thể hiện rõ rệt dấu ấn uy quyền của các vị vua, có tính độc bản vì đạo sắc nào cũng chỉ có một bản. Hơn nữa, niên đại ghi ở cuối văn bản gồm triều vua và ngày tháng ban sắc là thông tin tuyệt đối chính xác làm căn cứ để người đời sau có thể hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể của từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, sắc phong được viết trên chất liệu giấy quý vừa đẹp vừa có độ bền cao. Loại giấy này được làm tại làng Nghè (tức làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội) rất quý vì nguyên liệu dùng để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc, kim nhũ và được sản xuất bằng kỹ thuật seo giấy cổ truyền đặc biệt công phu, chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng.
 
 
Các nhà nghiên cứu thảo luận sôi nổi về giá trị và hướng bảo tồn sắc phong trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Sắc phong ở Bắc Ninh có hai dạng chính: Loại thứ nhất dùng để phong cấp, ban chức tước cho công thần, quan chức. Đối với các gia đình, dòng họ thì sắc phong được xem là gia bảo do trưởng tộc hoặc những người có uy tín cất giữ bảo quản. Loại sắc phong này không có nhiều ở Bắc Ninh. Loại thứ hai là sắc phong thần cho các vị Thành hoàng làng (có thể là nhiên thần hoặc nhân thần) là tài sản chung của cả cộng đồng làng xã nên thường được cất giữ tại các đình, đền, miếu, phủ… Loại sắc phong này còn được bảo lưu khá nhiều ở các làng, xã trong tỉnh. Các nhà nghiên cứu xác định, đạo sắc gốc có niên đại sớm nhất và muộn nhất tỉnh Bắc Ninh đều ở thị xã Từ Sơn. Đó là, đạo sắc có niên hiệu Đức Long (1634) ở đình làng Hồi Quan, xã Tương Giang là sắc sớm nhất, còn sắc phong có niên đại muộn nhất phong thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại 8 (1932) ở đền Đầm khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải phân tích: Sắc phong bao giờ cũng chỉ được viết trên một mặt của tờ sắc với nội dung chỉ có khoảng hơn 100 chữ ghi về địa chỉ nơi được ban sắc phong, lý do được ban sắc, hệ thống mỹ tự ban cho Thành hoàng, đẳng cấp của Thành hoàng, niên hiệu và đóng quốc ấn. Hình thức sao chép phổ biến nhất là ghi chép trên giấy dó, giấy bản hoặc chạm khắc vào bia đá, bảng gỗ, kim loại… Việc cất giữ, bảo quản, phát huy loại tài liệu linh thiêng này mỗi nơi có những quy định riêng.
Thời gian qua, việc nghiên cứu sắc phong ở Bắc Ninh đã được các cơ quan quản lý nhà nước, giới chuyên môn và các địa phương quan tâm. Năm 2012, Bảo tàng tỉnh xuất bản cuốn “Thần tích, thần sắc các vị thần, Thành hoàng làng tỉnh Bắc Ninh”. Hàng năm, Ban Quản lý di tích tỉnh đều có chương trình thống kê tài liệu lịch sử, trong đó có nội dung chụp ảnh, phiên âm, dịch nghĩa in ấn lưu trữ tại cơ quan và phục vụ cho các địa phương cần khai thác sử dụng. Công tác tuyên truyền quảng bá các di sản sắc phong cũng được thực hiện thông qua việc trưng bày chuyên đề của Bảo tàng tỉnh và trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác bảo tồn và phát huy giá trị sắc phong vẫn còn nhiều bất cập. Tại hội thảo khoa học mới đây về “Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản sắc phong trên địa bàn tỉnh”, các nhà khoa học đã thảo luận, đưa ra nhiều giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy giá trị sắc phong trong giai đoạn hiện nay. Một giải pháp quan trọng là đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, quảng bá để người dân hiểu được nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị của di sản sắc phong, đồng thời, tiếp tục thực hiện các đề tài khoa học nghiên cứu tổng thể di sản sắc phong trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung đánh giá nghiên cứu số lượng sắc phong hiện có. Đặc biệt, cần có một dự án đầu tư kinh phí để bảo quản, kéo dài tuổi thọ cho hệ thống sắc phong trong tỉnh. Bởi, tuy được làm bằng giấy dó có độ bền cao nhưng do thời gian, khí hậu, bảo quản không đúng cách nên những tài liệu này không tránh khỏi bị hư hỏng, tỷ lệ sắc phong bị rách nát chiếm 40% so với tổng số hiện có ở Bắc Ninh. Đáng chú ý là phương án số hoá tư liệu sắc phong với tư cách là một nguồn di sản tư liệu ký ức độc đáo. Và nếu thực hiện thành công việc số hoá sắc phong sẽ góp phần quan trọng trong công tác quản lý hệ thống di sản văn hoá, đồng thời có thể giới thiệu, quảng bá rộng rãi hình ảnh, giá trị của di sản tư liệu đặc biệt này đến công chúng trong bối cảnh đương đại.   

Nguồn: Bài, ảnh: Thuận Cẩm
 

Thursday, March 5, 2020

Người Việt có kém văn minh trên mạng?


Việt Nam sẽ sản xuất đại trà bộ thử nghiệm corona (VOA)


Phát huy vai trò của hương ước, quy ước trong xây dựng đời sống văn hóa

Phát huy vai trò của hương ước, quy ước trong xây dựng đời sống văn hóa

24/10/2019 22:18 
 
Là sản phẩm văn hóa của làng xã xuất hiện cách đây hàng trăm năm, hương ước, quy ước ở giai đoạn lịch sử nào cũng giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng dân cư. Không chỉ là một thực thể văn hóa tinh thần có giá trị, tồn tại song song với luật pháp mà hương ước, quy ước còn làm phong phú đời sống làng xã, gìn giữ lệ làng phép nước và đặc biệt, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 
 

Nhờ những quy định cụ thể về các tục lệ ghi chép trong hương ước nên người dân Đồng Kỵ thị xã Từ Sơn (ảnh) qua các thế hệ đều có ý thức gìn giữ, bảo tồn các nghi lễ truyền thống.
 
Có nhiều cách định nghĩa về hương ước, quy ước nhưng có thể hiểu hương ước, quy ước chính là lệ làng được cụ thể hóa bằng văn bản để trở thành công cụ tự điều khiển, tự điều chỉnh của mỗi cộng đồng làng xã. Tên gọi của hương ước, quy ước cũng khá đa dạng, mỗi nơi có một cách gọi khác nhau như khoán ước, tục lệ, hương biên, hương lệ, sổ ghi phong tục... Theo các nhà nghiên cứu, hương ước ra đời vào nửa sau thế kỷ XV và có khoảng hơn 50 cách gọi khác nhau. Xưa kia, tại các làng xã đều có hương ước, một số phường thợ của các làng nghề thủ công truyền thống còn có quy ước riêng. Hương ước các làng không bất biến mà mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lại được điều chỉnh, bổ sung, thay đổi phù hợp.

 Mới đây, tại hội thảo nghiên cứu di sản văn hóa hương ước do Ban Quản lý di tích tỉnh tổ chức, các nhà nghiên cứu thảo luận và đánh giá: Di sản văn hóa hương ước tỉnh Bắc Ninh được chia làm 2 thời kỳ. Thời kỳ trước cuộc cải lương hương chính ở Bắc Kỳ (trước ngày 12-8-1921), các hương ước chủ yếu viết bằng chữ Hán Nôm, có làng viết trên giấy dó và đóng quyển lưu trữ, một số làng khắc lên bia đá, lên gỗ. Từ năm 1921, những quy định cụ thể trong việc cải cách hương ước tại các làng được triển khai đã xóa bỏ nhiều quy định không phù hợp với giai đoạn đầu thế kỷ XX và đó gọi là giai đoạn hương ước thời kỳ cải lương. Sau năm 1945, hương ước ở Bắc Ninh không còn được thực hiện. Những tài liệu ghi chép về hương ước cũng như văn bản hương ước của các làng xã bị thất lạc rất nhiều. Một số ít địa phương còn lưu giữ được bản sao hương ước cổ trước thời kỳ cải cách, tiêu biểu như: Làng Ngọc Trì (Bình Định, Lương Tài); làng Phù Lưu, làng Trang Liệt (thị xã Từ Sơn), làng Phả Lại (Đức Long, Quế Võ), làng Tư Vi (Tân Chi, Tiên Du), làng Yên Phụ (xã Yên Phụ, Yên Phong)...

 Theo thống kê của các cơ quan lưu trữ trung ương và địa phương hiện còn bảo lưu hơn 200 bản hương ước của các làng xã tỉnh Bắc Ninh, trong đó có gần 80 bản hương ước cổ (tính từ tháng 8-1921 trở về trước) và hơn 140 bản hương ước cải lương (tính từ tháng 8-1921 đến năm 1945). Một số cơ quan chuyên môn như Thư viện tỉnh sưu tầm được 68 bản hương ước tại Viện Khoa học xã hội; Bảo tàng tỉnh sưu tầm được 5 hương ước tại các địa phương để bảo tồn, phát huy giá trị. Nội dung cơ bản của hương ước phản ánh về chế độ ruộng đất công; quy định khuyến nông, bảo vệ sản xuất, môi trường; những quy định về tổ chức xã hội, bảo đảm cuộc sống như bảo vệ trật tự trị an, chống thiên tai địch họa, dịch bệnh, bảo vệ và tôn tạo công trình công cộng; quy ước về sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo, tổ chức lễ hội, đình đám, việc cưới xin, tang ma… 

  Lịch sử đi qua, hương ước thời xưa mang theo cả những giá trị tích cực và hạn chế song đó là những di sản văn hóa vô cùng quý báu của quê hương, đất nước và có giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hóa, cơ cấu tổ chức làng xã. Mỗi ngôi làng đều có các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đó là các công trình tín ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ các dòng họ, nhà thờ và lăng mộ các danh nhân... cùng những phong tục tập quán, nghi thức tế lễ, diễn xướng âm nhạc, nghệ thuật, lễ hội, các làn điệu dân ca, trò chơi dân gian... Tất cả những di sản tiêu biểu ấy tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng của mỗi làng quê và vì thế luôn được cộng đồng làng bảo vệ nghiêm ngặt, giữ gìn chu đáo.

 Khi đề cập nhìn nhận trở lại đối với vai trò hương ước, quy ước trong tình hình hiện nay, nhiều người cho rằng như thế là lạc hậu, không mang tính thời đại. Pháp luật hiện nay ngày càng hoàn thiện và phát huy tác dụng, đủ sức bao quát, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và giáo dục cộng đồng nên không cần đến hương ước, quy ước nữa. Tuy vậy, thực tế hội nhập quốc tế với sự biến đổi mạnh mẽ về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho thấy nhiều mỹ tục và di sản văn hóa làng xã đang dần mai một, một số chuẩn mực đạo lý truyền thống đang có biểu hiện xô lệch... 

 Công cuộc đổi mới ngày nay càng khiến chúng ta phải nhận thức lại về các giá trị trường tồn của văn hóa làng xã, trong đó vai trò của hương ước, quy ước là không thể phủ nhận. Đương nhiên, để hương ước, quy ước mang tính thời đại, có giá trị sử dụng và thiết thực đi vào lòng dân cần điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi cộng đồng dân cư. Bên cạnh việc thể chế hóa pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thì hình thức và nội dung hương ước, quy ước ngày nay cần có cả những qui định cụ thể, thiết thực, gắn bó với nền nếp sinh hoạt và phù hợp với mọi người trong mỗi cộng đồng làng xã, khu phố. Việc tham khảo, kế thừa tính đa dạng, toàn diện của các bản hương ước truyền thống là rất cần thiết. Bởi nó không chỉ có ý nghĩa khoa học để tìm hiểu cách thức vận hành của những ngôi làng cổ mà còn thiết thực phục vụ xây dựng đời sống văn hóa đương đại, góp phần giáo dục truyền thống, gìn giữ thuần phong mỹ tục, đặc biệt là bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa. 
 
Việt Thanh