Tuesday, September 18, 2012

Vẻ đẹp của Quan Họ cổ truyền xứ Kinh Bắc

Nghe (17:06)


Thứ tư 18 Tháng Giêng 2012

Trọng Thành

Trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Thìn 2012, hai đoàn dân ca Quan Họ Bắc Ninh và Bắc Giang sẽ tới Paris biểu diễn vào những ngày 21 và 22 tới tại Trụ sở UNESCO và Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp (CCV) (19 phố Albert, quận 13 Paris). Đi cùng các đoàn lần này có các nghệ nhân thuộc dòng Quan Họ cổ truyền xứ Kinh Bắc.

Quan Họ Bắc Ninh là một môn nghệ thuật dân ca rất phổ biến tại Việt Nam. Năm 2009, Quan Họ cổ truyền của xứ Kinh Bắc đã được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Chắc rằng, phần lớn người Việt Nam hay những người hiểu tiếng Việt, đều đã từng nghe không ít lần các làn điệu Quan họ. Tuy nhiên, Quan Họ cổ truyền xứ Kinh Bắc, được công nhận là di sản thế giới, lại là một sinh hoạt nghệ thuật còn ít người biết tới.

Tạp chí Cộng đồng RFI tuần này đưa đến với quý thính giả một số hiểu biết và cảm nhận về gia tài nghệ thuật sắp được trình diễn, qua nhận xét và tâm tình của các chuyên gia và nghệ sĩ. Khách mời của chúng ta là giáo sư âm nhạc dân tộc học Trần Quang Hải (Paris), nghệ sĩ Nguyễn Quý Tráng, phụ trách nhà hát Quan Họ Bắc Ninh, trưởng đoàn Quan Họ Bắc Ninh sẽ sang trình diễn, và nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm, một trong những người sẽ đưa Quan Họ cổ truyền đến với công chúng tại Pháp.

Ngoài chương trình nói trên, sẽ có trình diễn Quan Họ tại Lyon và Arcueil ngày 29/01/2012 và ngày 27/1/2011, và tại Đại sứ quán Việt Nam vào ngày 20/01/2012 (để vào xem các buổi biểu diễn cần liên hệ trước để có giấy mời).

Buổi trình diễn ngày 22/1 tại Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp có phần hướng dẫn chi tiết do giáo sư Trần Quang Hải thực hiện, với sự có mặt của hai nghệ sĩ Nguyễn Quý Tráng và Nguyễn Thị Thềm. Cũng tại Trung tâm còn có phần trưng bày với nhiều tư liệu nghe nhìn và các đồ vật gắn liền với thú chơi Quan Họ cổ truyền xứ Kinh Bắc. Trưng bày về Quan Họ Kinh Bắc sẽ mở cửa từ ngày 22/1 đến 22/2/2012 (trừ thời gian CCV nghỉ Tết 1/2 - 8/2).

Chơi Quan Họ : Nhìn nhau mà hát

Mở đầu tạp chí, giáo sư Trần Quang Hải giải thích về một số điều cơ bản để có thể phân biệt được di sản Quan họ cổ truyền với Quan Họ mới.

Giáo sư Trần Quang Hải : Có ba loại Quan Họ. Quan Họ làng, hay Quan Họ chay, tức là hát mà không có đệm. Quan Họ đoàn là do những người chuyên nghiệp ở trong 49 làng ở trong tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, tức là xứ Kinh Bắc, và Quan Họ đài, tức là những người ở ngoài vùng đó, được huấn luyện tại các nhạc viện.

Lần đầu tiên bên Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật đưa sang Pháp những người hát Quan Họ làng, tức là không có đệm đàn, để cho thấy rằng, đó là cái nguồn gốc.

Cái Quan Họ chính thức, truyền thống, có thể nói là khó nghe. Nhưng có điều là bắt đầu từ đó mới sanh ra các loại Quan Họ khác. Quan Họ truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của xứ Kinh Bắc, với những quy định rất là nghiêm túc, khắt khe, đòi hỏi những người hát, như liền anh, liền chị, phải am tường các tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này người ta gọi là thú chơi, chơi Quan Họ, chứ không phải là hát Quan Họ. Chơi Quan Họ chủ yếu là hát đôi giữa liền anh, liền chị, vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong Quan Họ truyền thống, thì đôi liền anh, liền chị họ phải nhìn nhau mà hát. Còn trong khi đó, những người hát trên sân khấu là họ nhìn khán giả để hát.

Nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm, làng Diềm (xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh), là một trong cái nôi của Quan họ vùng Kinh Bắc. Nghệ nhân Thềm là một trong số không nhiều liền chị tiếp tục hát và sống với truyền thống Quan Họ nghìn năm.

Nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm : Cái môn nghệ thuật dân ca Quan Họ này nó rất trữ tình, tình tứ, nói chung là từ các em nhỏ độ 8 đến 10, cho đến các cụ 90 tuổi vẫn ca hát, vẫn xưng là "anh hai", "chị hai"...

Quan Họ rất là riêng, mộc mạc, chân tình, nhưng càng nghe thì càng ngấm, càng ngấm và càng say.

Ví dụ như, hát Quan Họ truyền thống ở làng chúng tôi chỉ là hát canh đối đáp, ngồi chiếu, bên nữ đối ra, thì bên nam đối lại. Càng nghe về khuya, mới càng ngấm.

Hiểu được các lề luật của Quan Họ Bắc Ninh cổ truyền là điều rất cần thiết để có thể thưởng thức được nghệ thuật này.

Giáo sư Trần Quang Hải : Trong các luật lệ chánh, nó có ba chặng. Thứ nhất vô là phải hát "lề lối", tức là giọng cổ : "hừ là, là rằng, .. " hay là "ái ả", hay là giọng "kim lang", hay là giọng "cây gạo", tức là những giọng rất là khó, và lại đặc biệt là chú trọng về những kỹ thuật hát, như « nẩy hạt ». Ý nghĩa thứ nhất của chặng này là để mở đầu một canh Quan Họ, để mà « rửa giọng » cho giọng được tốt, để cho người ta thấy rằng, những người hát này là những người nắm vững truyền thống. Bởi vì, nếu không hát các giọng cổ (lề lối), thì không thể coi đó là một canh Quan Họ được. Mà giọng lề lối thì hát nghe không hay lắm, tại vì nghe « ừ, à ». Mấy người trẻ nói sao hát gì mà, tối ngày cứ « í, a, ừ hà, ừ hừ » hoài, không hiểu gì hết. Cái giai điệu trong gian đoạn này nó rất là đơn sơ, chứ không phong phú như trong giọng « vặt ».

Khi nào hát xong các bài giọng lề lối đó rồi, thì mới chuyển qua giọng vặt. Mà trước khi đó, thì « bọn » (nhóm) Quan Họ phía nam mới bắt đầu mời « bọn » Quan Họ phía nữ đến nhà, rồi có những màn chào đón, mời ăn trầu ... Mà têm trầu phải têm cánh phượng thật là đẹp, hoặc các loại trầu quý khác để mời nhau ăn trầu, rồi uống trà, rồi bày cỗ ra ăn, … Trong khi ăn, cũng hát đôi chút. Rồi sau khi ăn xong, mới đi vào một canh hát Quan Họ.

Chặng hát thứ hai "giọng vặt" là gồm những bài hát hoa lá, nói về tình yêu, nói về cảnh vật, nói về nỗi lòng … Nhiều khi hai bên thương nhau, nhưng hai bên Quan Họ không được quyền lấy nhau. Trong phần giọng vặt đó, bên phía đàn ông muốn tỏ tình thương của họ đối với người đàn bà, nhưng có điều không thể đi vượt quá cái truyền thống đó, thành ra phải âm thầm. Thương thôi chớ không nghĩ tới việc kết thành vợ chồng. Cũng có thể có một vài trường hợp ngoại lệ, nhưng có điều, những người đấy mà lấy nhau rồi, thì phải đi ra ngoài, không được ở trong bọn Quan Họ nữa.

Sau cùng, mà hát xong giọng vặt rồi, thì mới tới giọng chót (hay chặng cuối) là giọng « giã bạn ». Tức là từ giã nhau, mà khi từ giã nhau, thì quyến luyến, nhiều khi hát giã bạn tới hai, ba tiếng đồng hồ. Bình thường có thể hát từ 7 giờ tối cho đến 2, 3 giờ khuya. Có những nơi có thể kéo dài hai, ba đêm.

Hát để thương, để nhớ, để say ...

Quan Họ không phải là chỉ là hát đơn thuần. Đi liền với nghệ thuật hát là cả một nghệ thuật sống, đặc biệt là trong tình cảm giữa nam và nữ. Một tình yêu lý tưởng, không chuyển thành hôn nhân, nhưng vẫn có thể đâm hoa, kết trái. Sau đây là các tâm sự của nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm :

Nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm : Thật ra Quan Họ thì học cũng hát được, và nó cũng gọi là dễ. Nhưng về cái lối chơi Quan Họ thì nó mới là khó.

Chơi làm sao, người Quan Họ gọi là « giấy rách, thì giữ lấy lề », phải lịch sự, phải khiêm nhường. Ví dụ như là, nói chuyện với anh hai, với chị hai, thì bao giờ cũng phải « năm thưa, mười gửi » : « Em xin đỡ nhờ anh hai, anh ba, … », kể cả nữ, bên chị hai, nhiều tuổi hơn các anh hai, nhưng vẫn xưng em, và cũng năm thưa mười gửi ... Kể cả, ví dụ như là bên nam cũng thế. Bên nam, kể cả già bảy, tám mươi tuổi, nhưng hát với các chị hai, ví dụ chỉ có bằng 20, 30 tuổi thôi, cũng vẫn xưng là em. Quan Họ rất lịch sự và tinh tế ở chỗ đấy.

Ví dụ Quan Họ hát thì không bao giờ nam và nữ được đứng gần nhau. Ngày xưa, đi hát, nam ngồi một bên gian nhà bên này, nữ ngồi một bên gian nhà bên kia. Đèn dầu ở gian giữa, tối không nhìn thấy mặt nhau, nhưng mà say nhau về lời ca tiếng hát. Và có khi rất là lưu luyến nhớ nhung đấy, nhưng mà Quan Họ thì không lấy được nhau.

RFI : Thưa chị, cái chị gọi là « say nhau », nhưng không được lấy nhau, thì trong khi mình sinh hoạt như thế, cái tình cảm qua lại nó được thể hiện như thế nào qua nghệ thuật Quan Họ ?

Nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm : Ví dụ như thế này. Bên nam và bên nữ hát một canh với nhau. Nam một bên, nữ một bên. Có thể có chị hai bên này có cảm tình với anh hai bên kia, nhưng ở đây chỉ là lưu luyến nhớ nhung nhau trong những câu hát thôi.

Nói chung là bọn tôi hát rất say. Có khi hát thâu đêm, suốt sáng, quên cả thời gian (…). Say câu hát, cũng không phải chỉ là say câu hát thôi, mà cũng có thể là say tình. Say vì anh kia hát hay, anh kia nhiều câu, nhiều vốn liếng. Nhưng mà, vì bây giờ Quan Họ đã có lời nguyền với nhau rồi, đã « kết chạ » với nhau, coi nhau như anh em một nhà rồi. Quan Họ có lời thề độc, nếu mà lấy nhau, thì sẽ không được sống trọn đời, trọn kiếp với nhau. Có khi yêu vụng, nhớ thầm đấy, về nhà đêm ngủ là cũng bâng khuâng, lưu luyến đấy, nhưng mà chỉ là mong sao là hẹn đến ngày mai, hoặc ngày kia, đến ngày hội để mình được gặp nhau, để mình lại được hát, để được nghe anh ba, anh hai hát, để mình lại đối đáp với nhau. Thắm thiết, nhưng mà chỉ qua lời ca tiếng hát thôi.

Hai mà một

Quan Họ là một sinh hoạt nghệ thuật cổ truyền của vùng Kinh Bắc, rất đặc biệt về lề lối, về các quan hệ giữa các liền anh, liền chị, về những xúc cảm, tâm trạng của họ được gửi gắm qua nội dung các câu hát. Quan Họ hay còn đặc biệt là vì những kỹ thuật hát rất đặc thù. Sau đây là các giải thích của nhà âm nhạc dân tộc học Trần Quang Hải :

Giáo sư Trần Quang Hải : Cái đặc trưng trong hát Quan Họ là có "giọng dẫn" và "giọng luồn", tức là giọng chánh và giọng phụ. Hai giọng phải làm sao cho người nghe có cảm tưởng chỉ có một giọng hát mà thôi. Thành ra hai người đó phải luyện tập với nhau hàng chục năm, để cho hai giọng mà chúng ta có cảm tưởng là một. Từ cái đó, mới đẻ ra các kỹ thuật hát riêng của Quan Họ là « Vang, rền, nền, nẩy » (…).

Trong tất cả các dân ca Việt Nam, không bao giờ có chuyện hai người hát mà cùng nghe một giọng như vậy (hát cùng giọng hoàn toàn khác với hát cùng một bè - chú thích của người biên tập). Muốn lựa được như thế phải lâu năm. Phải tìm trong nhóm của mình hai người, có thể là một người trẻ, một người lớn tuổi. Hai người phải có cùng một âm vực, phải làm sao lựa, khi nào ngân, lúc nào luyến láy, lúc nào làm rền, ... (…) Tôi có dịp xem ở làng Viêm Xá, thì thấy hai người phụ nữ và hai đàn ông hát với nhau, nhìn nhau, ăn khớp đến mức khi mình nhắm mắt lại thì mình cảm tưởng chỉ có một người hát thôi.

Tình yêu : Sáng tạo và thách thức

Cái hay đặc biệt của Quan Họ không chỉ là hát thành cặp, mà còn thể hiện qua sự đối đáp giữa hai bên nam nữ. Đây là một không khí đặc biệt, khiến Quan Họ trở thành một môi trường rộng mở cho sáng tạo.

Giáo sư Trần Quang Hải : Khi hát cái giọng lề lối, bên phụ nữ hát trước, hát mời, rồi người bên kia phải hát đối lại, theo giọng lề lối. Còn về phần giọng vặt, thì nó có cái khác là hát vừa đối lời, vừa đối luôn cả giai điệu, rồi bên đối lại phải sáng tác một điệu khác, nếu bên kia đối không được là bên kia thua. Từ đó mới sáng tạo ra rất nhiều giai điệu Quan Họ. Giai đoạn thứ hai (giọng vặt) là để tạo cho những người nghệ nhân Quan Họ có dịp sáng tác mới qua những lúc tức hứng. Có khi họ sáng tác tại chỗ, có khi sáng tác tại nhà, để đưa ra trong các dịp hát đối, nếu phía bên kia không đối được, thì bên kia thua.

Hồi xưa, Quan Họ cổ truyền có rất ít bài bản. Mỗi lần gặp nhau, thì tạo ra thêm một số bài bản mới. Qua năm tháng, số bài càng ngày càng tăng. Trong Quan Họ, có chừng gần 300 bài. 300 bài như thế chứng tỏ rằng Quan Họ có rất nhiều sáng tác, điều này tạo cho Quan Họ một chỗ đứng biệt lập trong kho tàng dân ca Việt Nam.

Trở lại những tương giao giữa các liền anh, liền chị, đối với nghệ sĩ Nguyễn Quý Tráng, chính cái tình cảm tha thiết giữa người nam và người nữ, không kết thúc trong hôn nhân, có thể là cơ sở cho sự nảy nở một tình yêu trọn vẹn trong nghệ thuật :

Nghệ sĩ Nguyễn Quý Tráng : Trước đây, theo quy định của Quan Họ các cụ đặt ra, thì Quan Họ làng A không lấy Quan Họ làng B, thì người ta bị quy định bởi cái đấy, cho nên cái sức sáng tạo trong Quan Họ, thì tôi nghĩ rằng, cũng vì cái cấm đoán ấy mà nó trở thành rất nhanh nhậy trong lời ca của Quan Họ. Nếu mà không có sự cấm đoán ấy, thì cái Tình Yêu chưa chắc đã đẹp được đến như thế.

Còn bây giờ, thì có thể thông qua sự giao duyên, thông qua tiếng hát của Quan Họ, thì cá thể con người nam, nữ thời đại ngày nay, người ta có thể yêu nhau, người ta có thể đến kết duyên với nhau, thì điều này vẫn có thể có. Và tôi cho rằng, đấy cũng là một cái để gây ra cảm xúc cho thanh niên thế hệ thời nay.

Xin chân thành cảm ơn giáo sư Trần Quang Hải, nghệ nhân Nguyễn Thị Thềm và Nghệ sĩ Nguyễn Quý Tráng.

Nguồn RFI Tiếng Việt

Saturday, July 14, 2012

Vietnam Closeup - Hành Trình Xuyên Việt 14 - Làng Tranh Đông Hồ



Uploaded by on Jan 8, 2008
Vietnam Closeup - Hành Trình Xuyên Việt 14 (Trích Đoạn)

Saturday, July 7, 2012

Làng tranh Đông Hồ

Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.

Ảnh: Ván khắc tranh Đánh ghen (âm bản) ở nhà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, làng tranh Đông Hồ.

Quanh năm rất nhiều khách du lịch trong ngoài nước đến làng tranh Đông Hồ thăm và mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách sạn, nhà hàng từ Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cũng về đây đặt những bức tranh khổ lớn để trang trí cho các phòng khách, hoặc phòng ăn lớn. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ đường gần nhất du khách thường đi là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) là đến phố Hồ - huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.

Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.
Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.

Còn "làng Mái có lịch có lề" thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu: giấy rách phải giữ lấy lề. Chữ lề ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Còn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói. Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau.

Ảnh: Ván khắc tranh Chăn trâu thổi sáo ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam làng tranh Đông Hồ.

Do công nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng ChếNguyễn Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đông Hồ.

Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng 3 âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.

Nguồn

Saturday, May 26, 2012

Danh sách các lễ hội ở Bắc Ninh (Tháng 6,8,9 và 10)

Tháng 6
    • Ngày 26 - 6:
      • Kỷ niệm ngày sinh của Ngô Quang Dũng - Vân Dương - TP. Bắc Ninh.
Tháng 8:
  • Mùng 1-7:
    • Hội làng Phấn Động ở xã Tam Đa, huyện Yên Phong.
  • Mùng 1-4:
  • Mùng 5:
    • Hội làng Đông Xá ở xã Đông Phong, huyện Yên Phong.
  • Mùng 7:
    • Hội rước nước làng Thị Cầu ở phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh.
  • Ngày 14:
    • Hội rước nước đền Phả Lại ở xã Đức Long, huyện Quế Võ.
  • Ngày 15­-16:
    • Hội đền Chi Long ở xã Long Châu, huyện Yên Phong.
Tháng 9
    • Mùng 8-­9:
      • Hội chùa Dạm ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ.
    • Mùng 10-18:
    • Mùng 23:
      • Giỗ bà Lý Chiêu Hoàng tại Đền Rồng, Đình Bảng, Thị xã Từ Sơn.
      • Hội thi nói khoác làng Đông Yên ở xã Đông Phong, huyện Yên Phong.
    • Ngày 29
      • Giỗ tổ làng nghề Đại Bái (bưởi) thuộc xã Đại Bái
Tháng 10
    • Ngày 15:
      • Hội thi giã bánh dầy làng Đạo Chân ở xã Kim Chân, TP Bắc Ninh.

Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thursday, May 24, 2012

Danh sách các lễ hội ở Bắc Ninh (Tháng 2,3,4)

Tháng 2
    • Mùng 4: Hội Đình Đông-Đình Đoài, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành (hai đình chung một hội)
    • Mùng 6:
      • Hội Đình làng Dương Húc (Đại Đồng - Tiên Du), lễ rước Thành hoàng có công dẹp giặc Ân giúp nước.
      • Hội đình Keo ở Phù Chẩn, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Nghĩa Chỉ ở Nghĩa Chỉ, Minh Đạo, Tiên Du.
    • Mùng 6-­12:
      • Hội trình nghề ở Phương La Đông, Phương La Đoài (Tam Giang­, Yên Phong).
      • Hội làng Tiêu Long, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 7:
      • Hội đền Đức Vua Bà (Thủy tổ Quan họ) làng Viêm Xá (Diềm) ở xã Hòa Long, huyện Yên Phong.
      • Hội làng Hồi Quan nơi thờ Đức thánh Tam Quang ở xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn
      • Hội Chùa Đài hay còn gọi là chùa Kim Đài, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn
    • Mùng 7­-15:
      • Hội tranh cây mộc tất làng Long Khám ở xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du.
    • Mùng 7-9:
      • Hội làng Tiến Bào ở Tiến Bào, xã Phù khê, thị xã Từ Sơn
      • Hội làng Nguyễn Thụ ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Lễ Xuyên ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Yên Lã ở phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn.
      • Hội chùa Tiêu ở xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 8­-10:
      • Hội làng Cẩm Giang ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 10:
      • Hội làng Đại Vi, xã Đại Đồng, Tiên Du, Bắc Ninh
      • Hội làng Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, thờ Lê Văn Thịnh (Thủ khoa Đại Việt đầu tiên)
      • Hội làng Dương Lôi (Đình Sấm) ở phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn để kỷ niệm ngày mất của bà Phạm Thị, thân mẫu Lý Công Uẩn.
      • Hội làng Tam Tảo ở Phú Lâm, huyện Tiên Du, kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương TRẦN QÚY và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu PHƯƠNG DUNG, người có công cứu mạng Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ). Tưởng nhớ ơn hai anh em vị tướng ĐÀO LẠI BỘ người có công giúp Thục Phán AN DƯƠNG VƯƠNG đánh giặc Triệu Đà xâm lược.
      • Hội làng Đông Phù (Phú Lâm, ­Tiên Du) có trò rồng rắn đuổi bệt.
    • Mùng 10 - 12:
      • Hội Làng Yên Mẫn, phường Kinh Bắc, Thành phố Bắc Ninh
    • Ngày 14:
      • Hội chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, TP Bắc Ninh.
    • Ngày 14­-15:
      • Hội chùa làng Nghiêm Xá ở xã Việt Hùng, huyện Quế Võ.
    • Ngày 12­-16:
      • Hội đình Đình Bảng (Đình Bảng, ­Từ Sơn) có đón chạ Cẩm Giang và thi đấu vật.
      • Ngày 17: Hội làng Nghi An (Trạm Lộ - Thuận Thành) rước phật, đá bóng, bóng chuyền, đánh đu, chọi gà, hát quan họ.
    • Ngày 26:
      • Hội làng Tiến sĩ Kim Đôi ở xã Kim Chân, TP Bắc Ninh.
    • Ngày 28: Hội chiến thắng Như Nguyệt ở xã Tam Giang, huyện Yên Phong.

Tháng 3
      • Ngày 03 tháng 3 AL: Giỗ tổ Phường Đậu: thôn Trà Lâm, xã Trí Qủa, Thuận Thành, Bắc Ninh (Nguyễn Thừa Quang)
    • Mùng 4 Hội làng Phúc Tinh ở xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 8:
      • Hội Trang Liệt ở phường Trang Hạ, thị xã Từ Sơn.
      • Hội Bính Hạ ở phường Trang Hạ, thị xã Từ Sơn.
      • Hội Phù Lưu ở phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 10:
      • Hội làng Đa Tiện (xã Xuân Lâm, huyện Thuận Thành).
      • Hội đền thờ Nguyễn Cao làng Cách Bi, xã Cách Bi
      • Hội làng Tiểu Than - Lễ rước lăng mộ Cao Lỗ Vương (Vạn Ninh, ­Gia Bình).
      • Hội đền Cao Lỗ Vương ở làng Đại Than, xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
      • Hội "Thất thôn giao kiệt" làng Phú Mẫn ở thị trấn Chờ, huyện Yên Phong.
      • Hội làng Mẫn Xá, huyện Yên Phong
    • Ngày 14-16:
      • Hội đình làng Từ Phong, Cách Bi, Quế Võ.
      • Hội đền Lý Bát Đế ở phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn.
    • Ngày 18­-20:
      • Hội Đậu (Mộ Đạo, ­Quế Võ) có thi thả diều, bơi chải.
    • Ngày 24: Hội chùa Bút Tháp ở xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành.
Tháng 4
    • Mùng 1: Hội đền Phụ Quốc (xóm Miễu - Tam Tảo - Phú Lâm - Tiên Du - Bắc Ninh). Kỷ niệm ngày mất của ông bà Phụ Quốc Đại Vương TRẦN QÚY và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu PHƯƠNG DUNG, người có công cứu mạng Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ).
    • Mùng 7:
      • Hội Khám (Hội chùa Linh Ứng), làng Ngọc Khám ở xã Gia Đông, huyện Thuận Thành.
    • Mùng 8:
      • Hội Dâu (Chùa Dâu) ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành.
    • Mùng 9:
      • Hội làng Vó (Quảng Bố) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài.
    • Mùng 10:
      • Hội làng Bưởi (Đại Bái) ở xã Đại Bái, huyện Gia Bình.
      • Hội đền Thánh Tổ (Bồ Tát) ở Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh.
    • Ngày 15:
      • Hội đền Xà ở xã Tam Giang, huyện Yên Phong.
    • Ngày 20:
      • Hội đền Vân Mẫu ở phường Vân Dương, TP Bắc Ninh.

(Còn tiếp)

Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Monday, May 21, 2012

Danh sách các lễ hội ở Bắc Ninh (Tháng Giêng)

Danh sách này liệt kê các lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau.

Các lễ hội tiêu biểu

Một số lễ hội tiêu biểu được liệt kê dưới đây:
  • Lễ hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du) được tổ chức vào 13 tháng giêng hàng năm, tổ chức thi hát quan họ.
  • Lễ hội làng Tam Tảo - Phú Lâm - Tiên Du. Được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 2 hàng năm, Kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương Trần Quý và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu Phương Dung. Tưởng nhớ ớn hai vị tướng Đào Lại Bộ người có công giúp Thục Phán An Dương Vương đánh Triệu Đà xâm lược.
  • Lễ hội Đền Đô (Đình Bảng, thị xã Từ Sơn) để kỷ niệm ngày đăng quang của vua Lý Thái Tổ - 15 tháng 3 năm Canh Tuất 1010, và tưởng niệm các vị vua nhà Lý.
  • Lễ hội Phù Đổng (của bốn xã trong đó có xã Phù Đổng huyện Tiên Du) ngày 9 tháng 4 để kỷ niệm vị anh hùng dân tộc Phù Đổng Thiên Vương.
  • Lễ hội Thập Đình (của mười xã thuộc hai huyện Quế Võ và Gia Bình) để kỷ niệm trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam tức Thái sư Lê Văn Thịnh và Doãn Công (Cao Doãn Công).
  • Lễ hội Đền Cao Lỗ Vương ngày 10 tháng 3 ở làng Tiểu Than (làng Dựng) xã Vạn Ninh và làng Đại Than (làng Lớ) ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
  • Lễ hội Đền Tam Phủ xã Cao Đức, huyện Gia Bình.
  • Lễ hội Đồng Kỵ ngày 4 tháng Giêng.
  • Lễ hội Chùa Dâu ngày 8 tháng 4.
  • Lễ hội Đình Châm Khê ngày 4 tháng tám (âm)
Có câu:
Mùng bẩy hội Khám
Mồng tám hội Dâu
Mồng chín hội Gióng
Mồng mười hội Bưởi đâu đâu cũng về
Lịch một số lễ hội tiêu biểu ở Bắc Ninh

Tháng giêng

(Theo âm lịch[1])
  • Mùng 4:
    • Hội làng Chóa làng Chân Lạc, xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong
    • Hội rước pháo, thi pháo, tế bánh dầy, diễn trò ôm cột, dô Ông Đám, múa hoa làng Đồng Kỵ ở phường Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn.
    • Hội xem hoa mẫu đơn, diễn trò "Từ Thức gặp tiên" ở chùa Phật Tích (Phật Tích­ - Tiên Du).
    • Hội thi kéo co giữa nam và nữ làng Hữu Chấp ở xã Phong Khê, huyện Yên Phong.
    • Hội rước lợn ỷ và đuổi cuốc làng Trà Xuyên ở xã Khúc Xuyên, huyện Yên Phong.
    • Hội hát Quan họ làng Ó (Hội Ó) ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Tối họp chợ âm phủ và bán gà đen.
    • Hội làng Vó (tức Quảng Bố) ở xã Quảng Phú, huyện Lương Tài có tục đánh cá làm gỏi để tế thần Đông Hải Đại Vương.
  • Mùng 4­-5: Hội đuổi cuốc ở làng Xuân Đài (Vạn Ninh, ­Gia Bình).
  • Mùng 6:
    • Hội hát quan họ các làng Ném (Khắc Niệm) ở xã Khắc Niệm, TP Bắc Ninh và Khu Khả Lễ ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Từ năm 1999, làng Ném Thượng đã khôi phục tục "chém lợn tế thần"[2] theo sự tích một vị tướng cuối đời Lý[3]
    • Hội rước chạ Khả Lễ­, Bái Uyên ở xã Liên Bão, huyện Tiên Du.
  • Mùng 6-7: Hội thi mã Đông Hồ ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành.
  • Mùng 7:
    • Hội hát Quan họ làng Đào Xá (4/1 âm lịch), làng Đống Cao (7/1 âm lịch), làng Châm Khê (28/1) xã Phong Khê, huyện Yên Phong.
    • Hội hát quan họ làng Hòa Đình (làng Nhồi) ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh.
  • Mùng 5-­7: Hội "Bách nghệ" làng Như Nguyệt ở xã Tam Giang ­huyện Yên Phong. Biểu diễn các nghề của tứ dân "Sĩ, Nông, Công, Thương".
  • Mùng 6­-15: Hội "Chen" làng Nga Hoàng (Yên Giả, ­Quế Võ) có diễn trò trai gái, già trẻ chen nhau.
  • Mùng 8­-10:
    • Hội Phú Mẫn ở thị trấn Chờ­, huyện Yên Phong.
    • Hội hát Quan họ làng Bồ Sơn (Võ Cường, Thành phố Bắc Ninh) có diễn trò đập nồi niêu. Đậc biệt là hát quan họ dưới thuyền với khung cảnh đình, chùa, hồ nước
  • Mùng 9:
    • Hội làng Tam Sơn ở xã Tam Sơn, Thị xã Từ Sơn.
    • Hội Đình làng Thôn Trà Lâm, xã Trí Quả, Thuận Thành, Bắc Ninh.
    • Hội làng Trần ở phường Hạp Lĩnh, TP Bắc Ninh.
  • Ngày 11­-12: Hội thi đọc mục lục làng Phù Khê ở xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn. (Hiện nay không thấy lễ hội này còn xuất hiện)
  • Ngày 11-12: Hội làng Đông Mai, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong. với đối đáp quan họ, chọi gà, đấu cờ, đốt pháo (nay không còn nữa)... để tưởng nhớ bà thành hoàng làng là Dương Mai Công Chúa - Hứa Trinh Hòa là cung phi trong vương triều Lý Nam Đế, có công cùng ngài đánh đuổi quân ngoại xâm.
  • Này 12-13: Hội Lim ở thị trấn Lim, huyện Tiên Du.
  • Ngày 10­-15:
    • Hội làng Vân Đoàn (Đức Long­, Quế Võ) có tục rước lợn đen (ông ỷ).
    • Hội làng Đình Cả­, Lộ Bao (Nội Duệ­, Tiên Du) có tục "cướp chiếu", "tế trâu thui".
  • Ngày 13­-15:
    • Hội làng Thau (Kim Thao) ở xã Lâm Thao, huyện Lương Tài. Nổi tiếng về thi đấu vật.
  • Ngày 14­-15:
    • Hội đền Bà Chúa Kho, làng Cô Mễ ở phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh.
    • Hội làng Phù Lưu, thôn Phù Lưu, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong. Với những phong tục độc đáo: hát quan họ, hát đối đáp giao duyên, hội thi chọi gà, hội chơi cờ tướng, cờ người...
    • Hội làng Ngô Nội ở thôn Ngô Nội, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong.
  • Ngày 15: hội Thôn Song Tháp, Đa Vạn - phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn sát dòng sông Ngũ Huyện, Châu Khê, Từ Sơn.
  • Ngày 15-19: Hội làng Yên Phụ - xã Yên Phụ, huyện Yên Phong.
  • Ngày 17-18: Hội làng Á lữ - Đại đồng thành - Thuận Thành - Bắc Ninh. Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương (cha của Lạc Long Quân)
  • Ngày 18­-21: Hội chùa Tổ ở xã Thái Bảo, huyện Gia Bình.
  • Ngày 22-25: Hội làng Đông Yên, xã Đông Phong, huyện Yên Phong đây là 1 lễ hội lớn không thể bỏ qua
  • Ngày 27-28: Hội làng giấy Châm Khê - Phong Khê Thành phố Bắc Ninh
Danh sách lễ hội Bắc Ninh (tháng 2, 3)

Monday, May 7, 2012

Gia Lâm

Gia Lâm là một huyện ngoại thành phía Đông của thành phố Hà Nội. Đây là cửa ngõ phía đông của thủ đô.

Địa lý

Diện tích và dân số

Trước tháng 11 năm 2003, khi quận Long Biên chưa được thành lập thì diện tích của huyện là 172,9 km², dân số 340.200 người. Năm 2003 khi quận trên được thành lập thì diện tích huyện chỉ còn là 108,446 km² với dân số 190.194 người.

Thủy văn

sông Hồng (làm ranh giới tiếp giáp với quận Hoàng Maihuyện Thanh Trì), sông Đuống (ranh giới tiếp giáp với huyện Đông Anhquận Long Biên), sông Cầu Bây, sông Bắc Hưng Hải, sông Thiên Đức chảy qua.

Vị trí địa lý

Địa giới hành chính của huyện Gia Lâm là: phía bắc giáp thị xã Từ Sơnhuyện Tiên Du (Bắc Ninh), phía tây bắc giáp huyện Đông Anh, phía tây giáp quận Long Biên, quận Hoàng Mai, phía tây nam giáp huyện Thanh Trì, phía đông giáp huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), phía đông nam giáp huyện Văn Giang (Hưng Yên).

Hành chính

Có 22 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 2 thị trấn và 20 xã, cụ thể:

Về mặt địa lý, huyện Gia Lâm được phân ra làm hai khu vực, ngăn cách bởi dòng sông Đuống gồm:
  • Cụm Bắc Đuống: Thị trấn Yên Viên, Yên Viên, Yên Thường, Dương Hà, Ninh Hiệp, Đình Xuyên, Phù Đổng, Trung Mầu.
  • Cụm Nam Đuống: Thị trấn Trâu Quỳ, Cổ Bi, Đông Dư, Đa Tốn, Bát Tràng, Kiêu Kỵ, Kim Lan, Văn Đức, Đặng Xá, Dương Xá, Phú Thị, Dương Quang, Kim Sơn, Lệ Chi.

Lịch sử - Hình thành
Trước năm 1945, huyện Gia Lâm thuộc phủ Thuận An, rồi phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 13 tháng 12 năm 1954, sáp nhập khu vực phố Gia Lâm (gồm phố Gia Lâm, khu nhà ga Gia Lâm, sân bay Gia Lâm, và 4 xã Hồng Tiến, Việt Hưng, Long Biên, Ngọc Thụy) của tỉnh Bắc Ninh vào Hà Nội.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, toàn bộ huyện Gia Lâm (gồm 15 xã) của tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập vào Hà Nội. Ngày 31/5/1961, lập huyện Gia Lâm mới gồm 2 thị trấn và 31 xã:
  • 2 thị trấn: Gia Lâm, Yên Viên (trước thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)
  • 31 xã: Hồng Tiến, Việt Hưng, Long Biên, Ngọc Thụy, Thượng Thanh, Tiến Bộ, Giang Biên, Phúc Lợi, Trung Thành, Thạch Bàn, Quyết Chiến, Quyết Thắng, Toàn Thắng, Tân Hưng, Kim Lan, Quang Minh, Thừa Thiên, Cự Khối, Quang Trung I, Quang Trung II, Quyết Tiến, Vân Dục, Phù Đổng, Trung Hưng, Tiền Phong, Đình Xuyên, Dương Hà, Ninh Hiệp, Đức Thắng, Chiến Thắng, Đại Hưng.
Ngày 13 tháng 10 năm 1982: thành lập thị trấn Đức Giang và thị trấn Sài Đồng.
Thị trấn Đức Giang có diện tích 133 ha, gồm phần đất của 2 xã Việt Hưng, Thượng Thanh, thị trấn Gia Lâm và thị trấn Yên Viên. Thị trấn Đức Giang đông giáp xã Việt Hưng, tây giáp xã Thượng Thanh, nam giáp thị trấn Gia Lâm, bắc giáp thị trấn Yên Viên.
Thị trấn Sài Đồng có diện tích 79 ha, gồm phần đất của 3 xã Thạch Bàn, Gia Thụy, Hội Xá. Thị trấn Sài Đồng đông bắc giáp xã Hội Xá, tây giáp xã Gia Thụy, đông nam giáp xã Thạch Bàn.

Năm 1999, huyện Gia Lâm có 4 thị trấn: Đức Giang, Yên Viên, Sài Đồng, Gia Lâm và 31 xã: Thạch Bàn, Bát Tràng, Lệ Chi, Đình Xuyên, Ninh Hiệp, Phù Đổng, Trung Màu, Dương Hà, Yên Thường, Yên Viên, Giang Biên, Thượng Thanh, Kim Lan, Việt Hưng, Ngọc Thuỵ, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Hội Xá, Cổ Bi, Trâu Quỳ, Đa Tốn, Dương Xá, Kiêu Kỵ, Văn Đức, Đông Dư, Cự Khối, Dương Quang, Phú Thị, Đặng Xá, Kim Sơn.
Ngày 6 tháng 11 năm 2003, tách 10 xã: Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn: Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng để thành lập quận Long Biên. Trong đó thị trấn Gia Lâm đổi tên thành phường Ngọc Lâm

Truyền thống

Dưới thời phong kiến, huyện Gia Lâm có nhiều nhà khoa bảng lừng danh mà tên tuổi của họ được nhiều người trong cả nước biết tới. Chẳng hạn như: Hà Giáp Hải (làng Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm), Cao Bá Quát (xã Phú Thị, huyện Gia Lâm)...
Huyện Gia Lâm cũng là quê hương của Chử Đồng Tử, Thánh Gióng - hai nhân vật trong Tứ bất tử của Phật giáo Việt Nam.
  • Chử Đồng Tử là người xã Văn Đức, huyện Gia Lâm ngày nay, Thánh Gióng người xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm
  • Nguyên phi Ỷ Lan hay còn gọi là Bà Tấm (người xã Dương Xá, huyện Gia Lâm);
  • Công chúa Lê Ngọc Hân còn gọi là Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Dân gian còn lưu truyền tên gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên .
  • Công chúa Lê Ngọc Hân là người xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm ngày nay.
  • Lý Thường Kiệt -Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông tên thật là Ngô Tuấn (吳俊), là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - hoàng tử trưởng của Ngô Quyền [1], người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Có tài liệu lại nói quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay). Tuy nhiên, theo văn bia Đỗ Anh Vũ (được cho là soạn vào năm 1159) thì ông vốn họ Quách, tổ tiên là người ở Lũng Tây (Cam Túc, Trung Quốc). Thân phụ ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông [2], quê ở huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), được vua ban quốc tính, vì mới có tên là Lý Thường Kiệt. Cha của Đỗ Anh Vũ gọi Lý Thường Kiệt là cậu ruột. Sử sách Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát.
Nơi đây là phát hiện nhiều di tích khảo cổ quan trọng.

Thôn Đình Vỹ - xã Yên Thường có lễ hội truyền thống hàng năm vào ngày 20-08 (âm lịch) và đình làng thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đây là nơi có truyền thống đấu tranh và là một trong hàng trăm nơi hậu phương vững chắc cho kháng chiến trong cả nước. Ngoài ra, truyền thống hiếu học - tôn sư trọng đạo luôn được giữ gìn và phát huy nên có rất nhiều con em trong làng đỗ vào các trường Đại học trong cả nước.

Làng nghề

Một số làng nghề tại huyện Gia Lâm:
  • Bát Tràng (sản xuất gốm sứ)
  • Kiêu Kỵ (dát bạc, sơn son thếp vàng, đồ gỗ)
  • Ninh Hiệp (trồng và kinh doanh thuốc Bắc, buôn bán vải vóc)
...

Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Khám phá di tích bên bờ sông Đuống

Trong các dòng sông ở Việt Nam, Đuống có lẽ là dòng sông có mật độ các di tích lịch sử hai bên bờ dày đặc nhất. Sông dài gần 70 cây số, điểm đầu là ngã ba Dâu (huyện Đông Anh, Hà Nội), điểm cuối là ngã ba Mỹ Lộc (huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh) nối sông Hồng với sông Thái Bình.
 
Phía bờ Bắc sông là nơi phát tích của triều Lý, phía bờ Nam sông - thành Luy Lâu - là thủ phủ suốt gần một ngàn năm Bắc thuộc đã để lại rất nhiều làng cổ, chùa cổ và các di tích, đền thờ hai bên bờ sông.

Dạo chơi trên đường đê sông Đuống là thú vui của nhiều người trẻ Hà Nội. Đáng tiếc là con đường đê tuyệt đẹp này chỉ dành cho những du khách đi xe hai bánh chứ không thể phục vụ những đoàn khách trên các xe du lịch lớn.
 
Triền sông Đuống đẹp nhất vào khoảng tháng 11 - 12, khi nắng thu còn dịu, trời chỉ hơi se lạnh và hoa dại vàng rực nở bạt ngàn. Hai bên sông là cảnh làng mạc Bắc bộ xinh đẹp yên bình với những lớp nhà ngói nâu, lũy tre, đồng lúa…

Cứ đi vài cây số, những ai yêu thích kiến trúc cổ và những câu chuyện thần thoại, lịch sử lại sẽ phải dừng chân trước một mái đình cổ, một ngôi chùa tuổi đời gần ngàn năm, một đền thờ hứa hẹn nhiều câu chuyện ly kỳ. Một trong số đó là lăng Kinh Dương Vương cổ kính nằm trên một khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng, rợp bóng cây cổ thụ.
 
Rồi từ đê sông Đuống đi khoảng 300 mét vào thôn Á Lữ là gặp đền thờ Kinh Dương Vương rộng đến 3.000 mét vuông, cảnh quan rất đẹp. Bên trong hậu cung đền có ba ngai thờ: Ngai Kinh Dương Vương đặt ở gian giữa, ngai Lạc Long Quân ở bên phải, ngai Âu Cơ đặt ở bên trái. Ngoài các đồ thờ cúng, đền có lưu giữ 15 đạo sắc phong bằng chữ Hán thời Nguyễn, khẳng định đền thờ Kinh Dương Vương là lăng tẩm đế vương, có một sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 33.

Từ lăng Kinh Dương Vương đi một đoạn là đến chùa Bút Tháp tòa ngang, dãy dọc thâm nghiêm với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ độc đáo tài tình, có nhiều tượng Phật và cổ vật quý. Sông Đuống còn đi qua làng tranh Đông Hồ, rồi từ đó rẽ ngang thêm vài cây số là đến đền Bình Ngô - nơi thờ Lạc Long Quân - Âu Cơ.

Sông Đuống chảy hơn nửa đường về phía Đông thì gặp dãy núi Thiên Thai, tạo nên một vùng phong cảnh hữu tình. Từ đây, lại hàng loạt làng thờ An Dương Vương - Mỵ Châu. Đến gần cửa sông Lục Đầu Giang là cụm làng thờ Cao Lỗ Vương: Đông Trung, Bình Than, Văn Than, Kênh Phố, Tiểu Than…
 
Một buổi chiều dạo chơi hai bên bờ sông Đuống, du khách không chỉ được tận hưởng cảnh đẹp đồng quê, mà còn chiêm nghiệm được bao điều thú vị trước bề dày lịch sử vùng Kinh Bắc - cái nôi của văn hóa Việt Nam.



Monday, April 30, 2012

Lễ hội mùa Xuân và hội hát Quan họ

Cho đến tận ngày nay, dân gian vẫn truyền nhau về những lễ hội Quan họ nổi tiếng của một số làng Quan họ gốc như: Lim, Diềm, Bịu, Ó, Nhồi, Bùi, Bò, Nưa… với những câu ca:

“Mùng năm hội Ó
Mùng sáu hội Nhồi
Mùng bẩy hội Bùi…”

Hoặc

“Mùng năm hội Ó
Quan họ dồn về
Hội vui vui lắm
Chưa kịp đi tắm
Chưa kịp gội đầu
Giầu chưa kịp têm
Cau chưa kịp bổ
Miếng lành miếng xổ
Miếng lại quên vôi
Người có yêu tôi
Thì người cầm lấy”.

Giống như lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ cũng có hai phần: phần lễ và hội. Phần lễ là để thờ Thần (Thánh), Phật nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh là “cầu may” - tức cầu cho Thần, Phật phù hộ cho dân an vật thịnh, mùa màng phong đăng hòa cốc. Phần hội là diễn ra các tục trò dân gian vui chơi giải trí như: tuồng, chèo, ca trù, quan họ, vật… nhằm thư giãn sức dân sau những ngày mùa vụ vất vả trong năm. Khác với lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ thường có tục hát Quan họ diễn ra cả phần lễ và phần hội. Quan họ phần lễ là để hát những làn điệu cổ có nội dung ca ngợi công đức của Thần, Phật cầu may cho dân làng. Quan họ phần hội là để các liền anh, liền chị của các làng đến dự hội hát đối đáp giao lưu, mang đậm văn hóa lễ nghĩa của một vùng quê hàng ngàn năm văn hiến.

Vào những ngày hội của các làng Quan họ, các liền anh, liền chị Quan họ cùng quý khách thập phương nô nức đến trảy hội, bởi sức hấp dẫn của các lễ hội Quan họ là người ta được thưởng thức văn hóa Quan họ từ lề lối sinh hoạt cho đến lời ca tiếng hát ngọt ngào, sâu lắng tình nghĩa con người. Đối với các làng Quan họ “kết chạ” với nhau như: Diềm-Bịu, Bồ Sơn-Y Na-Khả Lễ… thì không những họ coi nhau như anh em ruột thịt trong cuộc sống hàng ngày, mà những ngày đình đám hội hè là dịp để sinh hoạt giao lưu văn hóa Quan họ, thắt chặt thêm mối quan hệ đầy tính nhân văn giữa hai làng. Thường thì từ vài ngày trước hội, làng có hội cử đôi Quan họ sang làng Chạ (bạn) để có nhời mời Quan họ bạn. Đúng hẹn, Quan họ chủ nhà sẽ ra tận đầu làng đón bạn (khách) “tay bắt mặt mừng” bằng những câu ca Quan họ nghe ngọt ngào, lịch thiệp, tế nhị, ví như:

“Ngày ngày ra đứng cổng làng
Trông về Quan họ mà mua lấy sầu
Ai làm mặt ủ mày chau
Ai làm đến nỗi nhớ nhau đi tìm
Ước gì đôi cánh như chim
Bay đến Quan họ để xem thế nào
Xem rằng ý ở làm sao
Nước thì không khát, nhưng khát khao tình”.

Khi đón được bạn, khách, Quan họ chủ nhà sẽ đưa bạn vào đình, chùa hát thờ Thần, Phật để cầu may, ví như:

“Chúng em ra tận đầu làng
Nghe lời thày dạy đón già thập phương
Lễ này có quả có hương
Dâng lên tam bảo Người biên đôi dòng
Người biên là tấm lòng thành
Mong người phù hộ an khang cửa nhà”.

Sau phần lễ là phần hội, Quan họ chủ nhà đưa bạn tham gia phần hát hội. Các liền anh, liền chị Quan họ từng tốp hát đối đáp giao duyên say sưa bên nhau ở sân đình, sân chùa, tràn cả xuống những vạt núi, đồi, ruộng và trên ao hồ quanh đình, chùa và đây chính là phần hấp dẫn nhất của các lễ hội Quan họ. Sau khi tham gia hát hội, Quan họ chủ nhà đưa bạn mình về “nhà chứa” để hát canh Quan họ với nhau. Vào canh hát Quan họ, bao giờ Quan họ chủ nhà cũng mời trầu nước bằng những cử chỉ, lời ca cung kính, tế nhị, như: “Nhất niên nhất lệ, đầu xuân năm mới, hội lệ làng em được đương Quan họ sang thăm đất nước làng em, trước là lễ Thần Phật, sau là vãng cảnh thăm đình chùa, xin mời đương Quan họ liền anh xơi trầu, xơi nước cho chị em chúng em được bằng lòng”. Tiếp theo Quan họ mời nhau hát rất khéo và trong canh hát bao giờ người ta cũng hát đôi, hát đối. Giữa canh hát Quan họ chủ nhà mời bạn xơi cơm, nước, bánh, quả. Mặc dù cỗ Quan họ rất to, nhưng Quan họ chủ nhà mời mọc khiêm tốn, tế nhị. Không những trong khi ca hát với nhau, mà ngay cả khi sinh hoạt ăn uống, Quan họ luôn luôn mời mọc nhau bằng những làn điệu lời ca ngọt ngào, lịch thiệp, tế nhị. Sau đó Quan họ chủ nhà sẽ mời bạn về từng thành viên trong bọn Quan họ để thăm hỏi động viên cha mẹ, anh em và tặng quà cho nhau.

Kết thúc hội, Quan họ chủ nhà lại đưa tiễn bạn ra về tận cổng làng. Ở đấy, họ còn giùng giằng quyến luyến bằng những lời ca, tiếng hát nghe sâu nặng ân nghĩa tình người, ví như:

“Người ơi, người ở đừng về
Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa…”

Như vậy, hội các làng Quan họ mặc dù chỉ diễn ra trong thời khắc, song dư âm về sự mến mộ, cung kính, lịch thiệp, tế nhị cùng lời ca tiếng hát ngọt ngào, sâu sắc của Quan họ chủ nhà đã mãi mãi đi vào tình cảm của các làng Quan họ bạn, cũng như quý khách thập phương. Và đầu xuân năm mới với những lễ hội của các làng Quan họ đã trở thành biểu tượng của văn hiến xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh.

Nguồn E-Ca Dao

Wednesday, April 25, 2012

Hội làng Phù Ðổng

Hội làng Phù Ðổng

Mồng bảy hội Khám
Mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu
Thì về Hội Gióng.

Hằng năm vào ngày mồng tám tháng Tư, tại đình làng Gióng, tên chữ là làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh có mở hội kỷ niệm đức Phù Ðổng Thiên Vương, tục gọi là Ðức Thánh Gióng, rất linh đình và trang trọng. Hội đền Phù Ðổng Thiên Vương tục gọi là hội Gióng rất vui với cuộc rước lịch sử, diễn lại trận đánh giặc Ân của đức Thánh Gióng.

Sự tích

Ðời Hùng Vương thứ VI, có đám giặc gọi là giặc Ân hùng mạnh, không ai đánh nổi. Vua bèn sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Ðổng, có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Ðứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc. Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Ðổng, về sau phong làm Phù Ðổng Thiên Vương".

Sửa soạn ngày hội

Hội đền Phù Ðổng Thiên Vương là một hội rất lớn do bốn xã thuộc tổng Phù Ðổng cùng tổ chức với sự tham gia của làng hội Xá, nên việc sửa soạn ngày hội cũng rất cẩn trọng, nhất là sửa soạn cho cuộc diễn lại thần tích đức Thánh Gióng phá giặc Ân.

Trong bốn xã này có hai xã Phù Ðồng và Phù Dực được luân phiên cử chủ tọa đám hội. Hai xã Ðổng Xuyên và Ðổng Viên chỉ đóng vai phụ tá trong đám hội và chỉ được đóng vai quân lính do thám. Mỗi xã được chia làm nhiều giáp, mỗi giáp tựa như một ấp hiện nay.

Hàng giáp phải cử lấy những người giữ các vai quan trọng trong cuộc diễn lại trận diệt giặc Ân. Những người này là các ông Hiệu, hiệu Cờ trông nom cờ lệnh, hiệu Chiêng điều khiển khiêng, hiệu Trống điều khiển trống. Còn một ông Hiệu Trung Quân để phối hợp điều hòa sự tiến quân và hai ông Hiệu Tiểu Cổ để đi tiên phong thám thính quân giặc.

Tất cả các ông Hiệu đều phải kén trong đám thanh niên từ 12 đến 26 tuổi. Có thể là những chàng trai đã lập gia đình rồi nhưng phải chay tịnh trong suốt thời gian sửa soạn cho đến ngày hội. Quân được chọn trong dân đinh bốn xã từ 18 đến 36 tuổi họp thành 10 cơ, mỗi cơ gồm một cơ trưởng và 15 cơ binh. Kẻ địch là quân tướng nhà Ân được tượng trưng bằng 28 thiếu nữ tuổi từ 10 đến 13 do hàng tổng cử ra để đóng vai 28 viên tướng giặc Ân, ăn mặc sặc sỡ, đeo đồ trang sức lộng lẫy.

Cờ lệnh bằng lụa màu lòng đỏ trứng gà, rộng ba tấc rưỡi và dài bảy vuông. Cờ do giáp chủ tọa may, đây chính là cờ đức Thánh Gióng dùng trong ngày diễn trận. Mỗi năm thay cờ lệnh một lần. Cờ năm trước, ông Hiệu cờ năm sau dùng để luyện tập trước ngày diễn trận.

Ðể phân biệt với những lá cờ khác, trên cờ sẽ có chữ "Lệnh" do một tay văn tự viết lên. Giáp chủ tọa trong mấy ngày đầu tháng tư sẽ lựa một ngày tốt, mời một bậc đại khoa nếu có, bằng không cũng phải mời một tay văn học tới viết chữ "Lệnh" này với sự chứng kiến của tất cả các ông Giáp trưởng bốn xã trong hàng tổng.

Những nghi lễ trước ngày mồng chín tháng Tư

Cuộc diện trận đã được sửa soạn từ ngày mồng sáu tháng Tư. Nên từ ba giờ chiều hôm mồng sáu, dân làng đã cử hành một đám rước tới giếng trước đền Mẫu, tức là Ðền Hạ, để lấy nước lau rửa tự khí dùng trong việc diễn trận. Nước đựng vào hai chóe sứ. Hai mươi bốn quân sĩ của Phù Ðổng Thiên Vương sắp hàng hai theo bậc Giếng từ trên bờ tới mặt nước để lấy nước. Người cơ binh đứng ở bậc Giếng cuối cùng, sát mặt nước, múc nước vào một chiếc gáo đồng rồi chuyển cho người đứng cùng hàng với mình ở trước mặt. Người này nhận gáo nước rồi lại chuyển cho người đứng trước mặt mình bên bậc trên, đứng kế bên người vừa chuyển cho mình...

Cứ lần lượt như vậy, gáo nước được chuyển theo đường chữ "CHI" cho tới miệng Giếng đến tay người đứng bên chóe sứ. Người này đổ nước vào chóe, lọc qua một miếng vải điều theo hiệu lệnh Cơ trưởng. Cơ trưởng mặc áo thụng xanh, đánh Kiểng để ra lệnh cho người cơ binh đổ nước vào chóe. Tự khí được rửa bằng nước đã lọc đựng trong chóe sứ ở sân đình.

Ngày mồng bảy vào cuối giờ Tỵ, cờ lệnh được rước từ đền Mẫu đến đền Thượng và buổi chiều vào lúc giờ Mùi, hàng tổng đi kiểm soát lộ trình từ đền đến bãi trận. Có điều gì khiếm khuyết lập tức phải sửa chữa và bổ khuyết ngay.

Cuộc diễn trận chính thức

Vào giờ Tỵ ngày mồng Chín có lễ tế cờ tại đền, có cả mổ trâu giết bò. Mọi người đều sẵn sàng để xuất trận. Mặt trận sơ sài, dưới chân Ðê có một hồ sen, địch quân chiếm đóng nơi hồ. Quân Phù Ðổng Thiên Vương tiến chiếm bờ hồ bên này, có một khoảng đất trống với nhiều mô nhỏ. Có ba chiếc chiếu đã trải giữa những mô đất này. Giữa mỗi chiếc chiếu có một chiếc bát úp trên một tờ giấy: Chiếu tượng trưng cho cánh đồng, Bát tượng trưng cho đồi núi, Tờ giấy cho mây.

Cờ lệnh đã trương lên, ông Hiệu cờ tiếp lấy rồi tiến lên ba bước. Rồi ông đứng ở giữa chiếc chiếu, hai chân chụm vào nhau. Ông nhảy lên hai lần, sau đó ông quỳ gối bên phải xuống chiếu, bàn chân trái dẫm ra đằng trước như hình chữ "Lệnh", hai tay ông phất cờ lệnh, xoay mình ba lần. Dân chúng dự cuộc lúc đó mỗi lần ông xoay mình lại đếm theo. ông đứng lùi khỏi chiếc chiếu. Lập tức mọi người nhảy xô tới cướp lấy xé chiếc chiếu. Họ tin những mảnh chiếu mang may mắn cho họ, và những người hiếm con được mảnh chiếu có thể thấy được tin mừng.

Khi chiếc chiếu thứ ba được dân chúng xâu xé chia nhau hết quân giặc cũng tan, các tướng giặc cũng rút lui hỗn loạn. Kiệu của các cô thiếu nữ được rước về làng Phù Ðổng. Một tiệc khao quân lớn diễn ra ngay trước cửa đền. Trận tái chiến diễn ra ở bãi Sòi Bia thuộc làng Phù Ðổng. Ở đây cũng lại có ba chiếc chiếu như ở Ðồng Ðàm. Ngày mùng mười tháng Tư, hàng tổng duyệt lại đạo binh thắng trận. Các khí giới được kiểm soát. Hàng tổng lại làm lễ trước đền. Quân sĩ lại được khao thưởng. Thế là "thiên hạ Thái Bình". Sau ngày diễn trận, hàng tổng lại tổ chức rước nước để rửa lại khí giới, đồ thờ đã dùng trong việc chiến trận. Và có nhiều trò vui cho khách trẩy hội thưởng thức: đánh vật, hát chèo và có cô đầu hát thờ.

Ðến dự hội, người xem được chứng kiến nghi thức về một hệ thống lễ với các động tác thuần tục, uy nghi mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao. Ðến hội, người ta có dịp cảm nhận được mối quan hệ hai chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau vừa thiêng liêng, vừa huyền ảo. Truyền thống yêu làng - yêu nước được giữ gìn như một tài sản văn hóa.

Trích Hội đình đám Việt Nam - Toan Ánh

Nguồn E-Ca Dao

Hình ảnh Tri Phương, Tiên Du, Bắc Ninh

ben do tri phuong

Bến đò Tri Phương - huyện Tiên Du, Bắc Ninh (26-10-2007)

LANG TOI.jpg1

Làng tôi - Xóm đạo Tri Phương

ba me bac ninh

Bà mẹ Bắc Ninh - Thôn giáo Tri Phương huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh

Chụp tại Bắc Ninh mùa Thu 2007
Nguồn Flickr

Saturday, April 14, 2012

Các làng Quan họ

Hiện nay, tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ. Do chậm trễ, có tới 18 làng Quan họ cổ ở Bắc Giang không kịp đưa vào danh sách đề cử ban đầu.[10] Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại nhiều ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh (còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh)[11] và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (còn gọi là quan họ bờ bắc sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang).

Trong phạm vi công nhận chính thức ban đầu chỉ gồm có 49 làng Quan họ tồn tại và phân bố như sau:[12]
  • Huyện Yên Phong gồm 16 làng: Hữu Chấp, Viêm Xá, Ðẩu Hàn, Xuân Ái, Xuân Ðồng, Xuân Viên, Thượng Ðồng, Thụ Ninh, Ðặng Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Ông Mơi, Ðông Yên, Châm Khê, Ðào Xá, Dương Ổ.
  • Thành phố Bắc Ninh gồm 14 làng: Cổ Mễ, Phúc Sơn, Y Na, Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá, Yên Mẫn, Yên Thị Trung, Vệ An, Ỗ Xá, Xuân Ổ, Hòa Đình, Khả Lễ, Bồ Sơn.
  • Thị xã Từ SơnTiên Du gồm 14 làng: Duệ Ðông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Hoài Thị, Hoàng Trung, Vân Khám, Bái Uyên, Ném Ðoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Hạ Giang.

18 làng Quan họ Bắc Giang được bổ sung sau này gồm 2 làng quan họ Hiệp Hòa, 2 làng quan họ Yên Dũng và 14 làng quan họ Việt Yên đã được công nhận năm 2010 gồm:[13]
  • Huyện Việt Yên gồm 14 làng: Mật Ninh, Quang Biểu, Núi Hiểu, Tam Tầng, Thổ Hà, Tiên Lát Thượng, Tiên Lát Hạ, Thần Chúc, Yên Ninh, Trung Đồng, Vân Cốc, Đình Cả, Đông Long, Khả Lý Thượng.[14]
  • Huyện Hiệp Hòa có 2 làng: Xuân Thành và Ngọ Xá.
  • Huyện Yên Dũng có 2 làng: Yên Hà và Yên Thịnh.

Làn điệu

Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam[15]. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc GiangBắc Ninh.

Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hời, cái ả, Gió mát trăng thanh, Tứ quý...v.v

Trang phục

Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ[16].

Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn mầu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh... gọi là áo kép[17]. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu[17], hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện. Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài ra cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác là khăn tay, lược, những "xa xỉ phẩm" theo quan niệm thời xưa. Khăn tay bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng hoặc trong túi trong[17].

Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau (mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba[17]. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: Trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước[17]. Chất liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh dán trong khi áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: Màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thủy, màu vàng chanh, màu vàng cốm v.v. Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà[17].

Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng[17]. Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se, màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng[17]. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Cũng tương tự yếm, thắt lưng làm bằng lụa nhuộm các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái[17].

Liền chị mặc váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa[17]. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm tầm đôi con khoai phía gót chân[17]. Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công; có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che dấu đầu các ngón chân[17]. Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.

Bảo tồn Quan họ

Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn so với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết.

Từ những năm 70 của Thế kỷ XX, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân. Sau khi sàng lọc và lựa chọn, nhạc sỹ, nhà nghiên cứu Hồng Thao đã ký âm thành bản nhạc, có bổ sung thêm một số ký tự riêng đặc trưng cho giai điệu Quan họ. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực kỳ cẩn thận. Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc NinhBắc Giang chịu trách nhiệm lưu giữ các cuốn băng này cần phải số hóa toàn bộ để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau, đó cũng là tài liệu văn hóa cần bảo tồn giúp các làn điệu quan họ sống mãi.

Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Quan họ

Dân ca quan họ (còn được gọi là dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca quan họ Bắc Giang hay dân ca quan họ Kinh Bắc) là những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam; tập trung ở vùng văn hóa Kinh Bắc - tức Bắc NinhBắc Giang ngày nay. Tên gọi Quan họ Bắc Ninh không có nghĩa tỉnh Bắc Ninh là chủ thể chính của thể loại dân ca này, Bắc Ninh hay Kinh Bắc được hiểu là tỉnh Bắc Ninh cũ mà ngày 10/10/1995, tỉnh Bắc Giang tách khỏi tỉnh này. Tuy nhiên, loại hình dân ca này chủ yếu phát triển mạnh ở vùng ven sông Cầu, một ranh giới tự nhiên của hai tỉnh.[1] Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi di sản này có thể thay đổi theo thời gian, do các chủ thể văn hóa tạo ra.[2]

Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), quan họ đã được công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại[3][4][5] sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.

Nguồn gốc

Ý nghĩa từ "Quan họ" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đình", hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.

Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân gian mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian.

Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.

Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận[6]. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa "liền anh" (bên nam, người nam giới hát quan họ) và "liền chị" (bên nữ, người phụ nữ hát quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát.


Quan họ truyền thống

Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc[7] Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ"[8] Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. - "Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát). Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa thích đến tận ngày nay như: Hừ La, La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo.

Quan họ mới

Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa CD, DVD về quan họ ngày nay đều là hình thức quan họ biểu diễn trên sân khấu, tức quan họ mới. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên trên thế giới.

Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: Không có ý thức và có ý thức[9]. Dù ít hay nhiều nhưng hình thức hát quan họ có nhạc đệm được coi là cách cải biên không có ý thức. Đa số các bài quan họ mới thuộc dạng cải biên này. Cải biên có ý thức là những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống. Loại cải biên này không nhiều, ví dụ bài "Người ở đừng về" là cải biên từ làn điệu "Chuông vàng gác cửa tam quan" (Xuân Tứ cải biên).

Hát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài "Sông Cầu nước chảy lơ thơ" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống "Nhất quế nhị lan". Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ không còn nữa mà một phần do hoạt động "hát quan họ" ngày nay thường được gắn với chính quyền nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá quan họ trên diện rộng.

Friday, April 6, 2012

Chơi Cho Nước Hán Sang Hồ - Quan Họ cổ (Giọng vặt)

Lịch Sử Quê Hương Cách Mạng (Chương 1)

"Trung Mầu là một làng lớn nằm bên trong đê sông Đuống, có nhiều cơ sở mà các đồng chí Trung Ương thường về họp. Tại Trung Mầu nơi có cơ sở Đảng vững mạnh, nhân dân địa phương dưới sự lãnh đạo cả chi bộ Đảng đã đứng lên lật đổ chính quyền của địch thành lập chính quyền cách mạng ngày mồng 10 tháng 3 năm 1945. Đây là nơi giành chính quyền sớm nhất trong cách mạng tháng 8"

(Trích trong cuốn Lịch sử cách mạng tháng 8 năm 1945 trang 86)

CHƯƠNG I

TRUNG MẦU - CON NGƯỜI - LỊCH SỬ

Trung Mầu ngày nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, là đất đai của hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên thuộc tổng Dũng Vi huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, do có chủ trương sát nhập liên xã, hai làng trên đã hợp làm một và được đặt tên là xã Trung Hưng.

Sau hòa bình lập lại (1954) do việc mở rộng ngoại vi Hà Nội, ngày 20/4/1961 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra quyết định chuyển giao xã Trung Hưng về huyện Gia Lâm. Dựa vào quyết định đó ngày 31 tháng 5 năm 1961 Hội đồng chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại ra quyết định số 78/cp lấy huyện Gia Lâm là thuộc ngoại thành Hà Nội.

Với ý nghĩa là một xã có truyền thống cách mạng, ngày 1 tháng 1 năm 1965 Trung Hưng được trở lại tên cũ là xã Trung Mầu

Địa giới của xã:

-Phía đông-nam giáp xã Lệ Chi (cách sông Đuống)

-Phía tây-nam giáp xã Phù Đổng

-Phía đông-bắc giáp xã Đại Đồng và xã Tri Phương huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.

Xã nằm bên bờ tả ngạn sông Đuống, ở về phía đông bắc và cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km. Diện tích đất đai toàn xã là: 4.240.000m2. Mật độ dân số bình quân 920m2/người.

Xưa kia đường giao thông chính của Trung Mầu chủ yếu là đê của sông Đuống. Về sau do nhu cầu mở rộng đường dân sinh liên xã, được sự quan tâm và giúp đỡ của cấp trên Trung Mầu đã đắp thêm một con đường trục lớn, nâng cấp láng nhựa nối liền với đường 179 đi qua các xã Phù Đổng, Ninh Hiệp rồi ra quốc lộ 1A. So với các xã trong huyện Gia Lâm thì Trung Mầu vẫn còn là một xã xa nhất và hẻo lánh.

Căn cứ vào chính sử thì Trung Mầu là một xã thuộc vùng đất cổ. Truyền thuyết về Đức Thánh Gióng có nói đến người cầm vồ ở Trung Mầu với sắc phong còn lưu lại là Quách Lân Đại Vương. Từ buổi bình minh của tổ quốc vào đời Hùng Vương thứ 6 (khoảng hơn 4000 năm nay) bấy giờ có giặc Ân phương Bắc(thường gọi là nữ tặc) đến xâm lược tràn vào nước ta như nước vỡ bờ. Thế giặc mạnh, vua tôi lo sợ cầu người hiền tài. Cậu bé làng Gióng ăn "bảy nong cơm, ba nong cà", uống "một hơi nước cạn đà khúc sông" lớn nhanh như thổi, bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tương truyền khi đạo quân binh mã của Ngài ầm ầm kéo qua cánh đồng làng Trung Mầu. Quách Lân một thanh niên khoẻ mạnh trí dũng song toàn đang đập đất trồng cà. Vốn là một người giàu lòng yêu nước và đầy khí phách anh hùng, Quách Lân đã hăng hái cầm vồ ruổi theo vó ngựa của Đức Thánh Gióng xông thẳng ra trước trận tiền đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi giành lại giang sơn cho đất nước.

"Người đang đập đất trên đồng
Em sau, anh trước một lòng đi theo"
(Trích truyện Thánh Gióng của Trần Lê Văn)

Hiện nay ở cánh đồng Trung Mầu vẫn còn dấu tích một gò đống to (đường Ghênh ngày nay). Tương truyền đó chính là nơi Quách Lân đi theo Đức Thánh Gióng năm xưa. Hàng năm cứ đến ngày hội Gióng (mồng 9 tháng 4 âm lịch) là ngày ở Trung Mầu phải sửa lễ vật rước đến đền Phù Đổng cúng tế. Tục lệ đó vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay.

Theo cuốn lịch sử các làng ở thủ đô Hà Nội, Trung Mầu có tên nôm là làng Miêu, một làng xưa thờ nhà sư Lý Khổng Minh Không (tức Lý Quốc Sư) tại Chùa Đô. Vì có chiến tích đối với quốc gia, nhà sư đó còn được vua đưa về tưởng niệm tại Kinh Đô Thăng Long. Hiện nay có đền thờ ở phố Lý Quốc Sư quận Hoàn Kiếm nội thành Hà Nội.

Thịnh Liên từ thời Tiền Lê cũng có tên nôm là làng Lân (một làng cận Giang). Chuyện kể rằng đó là làng Mục Hoàn trước kia ở xứ đồng Cửa Cầu được di chuyển đến. Về sau có thêm một số người ở Hà Nam lên làm nghề chài lưới ven bờ sông Thiên Đức cũng nhập cư vào đây. Có thể nói là thượng lưu sông Dâu đến hạ lưu sông Lục Đầu, đâu đâu cũng đều có người làng Lân kiếm cá. Xưa kia sông Thiên Đức chảy qua hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên. Sông nhỏ nước trong hai làng vẫn thường gánh nước về ăn hoặc tắm giặt vào những ngày hè. Thời Tự Đức cho đào kênh phân lũ nối liền sông Thiên Đức với sông Hồng dần dần tạo thêm một khúc sông mới (chỗ từ Cầu Đuống đến ngã ba sông Dâu bây giờ). Từ đó nước sông Hồng tràn vào đem theo lượng phù sa khá lớn bồi đắp đất đai hai ven sông màu mỡ. Sông Thiên Đức về sau được gọi là sông Đuống.

Mặt khác dựa vào kết quả nghiên cứu khoa học của ngành khảo cổ học ở di chỉ Trung Mầu đã tìm thấy một số ngôi mộ cổ như: Ngôi mộ xóm ngoài, ngôi mộ Vườn Rú, ngôi mộ Triền Vàng... Trong những ngôi mộ kể trên có nhiều hiện vật như vò gốm, tiền đồng, bát đĩa đồng, giáo mác đồng cũng như biết bao dụng cụ bằng đồng khác. Đặc biệt còn tìm thấy cả trống đồng loại I, chiếc rìu đồng lưỡi xén, chậu đồng, thạp đồng,... có khắc họa các hoa văn hình chó săn, hươu, hình người có áo chui đầu, khăn đầu, mũ cắm lông chim, trai đóng khố, gái mặc váy ngắn. Những ngôi mộ cổ đó có niên đại từ thế kỷ đầu đến thế kỷ IV, V trước Công nguyên.

Ở Trung Mầu và Thịnh Liên tất cả có gần 20 cái bia lớn nhỏ. Các bài ký trên bia đều ghi lại việc thờ hậu của nhân dân hai làng và ca ngợi công lao đức độ đối với những người có công. Từng nghe kinh thư có câu cách ngôn: "Ai có công thì được thờ cúng", kinh lễ có lời minh huấn: "Ai làm ơn tất được báo đền". Chỉ có thể kể lại một số bia tiêu biểu như sau:

1-Bia Từ Vũ:

Tạo năm Vĩnh Trị III (1678) người soạn bia là ông Hồ Sĩ Dương (tiến sĩ năm 1652). Nội dung bia ghi lại vị Tả Đô Đốc Trương Tướng Công và vợ là Lê Thị Toàn người xã Giới Tế huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, bỏ tiền giúp dân lo việc quan, lo dân lưu tán về quê. Về sau có 5 mẫu 5 sào ruộng đẳng điền để hương hỏa đèn nhang thờ thánh, được dân bầu làm Mậu Đức.

2-Bia Từ Chỉ:

Tạo năm Chính Hòa XIII (1692) người soạn bia là ông Vũ Thành (Thám Hoa). Nội dung bia ca ngợi nhân đức Nguyễn Công Chiêm và Thê chính phu nhân Nguyễn Thị Ngọc Thảng người làng Trung Mầu đỗ tiến sĩ làm quan thị nội giám trong triều.

Năm Chính Hòa XI (1690) giúp dân Trung Mầu 11.000 quan và 17 mẫu ruộng.

Năm Chính Hòa XIII (1692) giúp dân ba lần

-Sáu xã Tiên Du-Gia Lâm: 4.000 quan, 13 mẫu 1 sào

-Sáu xã Tiên Du-Gia Lâm: 4.100 quan, 12 mẫu 4 sào

-Thịnh Liên: 700 quan, 2 mẫu để xây dựng đình dựng bia, Trung Mầu 200 quan để xây chùa.

Do có công lao như vậy xã Trung Mầu được chọn thửa ruộng hơn hai sào phụng lập dựng bia Từ Chỉ để người đời sáu xã ghi lòng tạc dạ lâu dài. Bài ca về Từ Chỉ lúc bây giờ còn lưu truyền mãi đến ngày nay.

"Trung Mầu anh cả
Hàng xã thứ hai
Dũng Vi chi ngoài
Kim Đường, Hàn Lạc"

***

"Sáu xã sáu đình
Sáu trăm quan tiền
Sáu xã yêu nhau
Thuận Hòa vi quí..."

3-Bia Bà Đức Chiêu:

Tạo năm Vĩnh Thịnh VI (1710) người soạn bia là ông Nguyễn Đăng Đạo tiến sĩ 1683) trạng nguyên lưỡng quốc (Việt Nam-Trung Quốc) quê Bắc Ninh. Nội dung bia kể về bà cung tần Trần Thị Ngọc Nhuyễn sinh năm 1673 bậc tôn quí ở xã Vạn Phần huyện Đông Thành Phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An. Bà là người vẹn toàn công dung ngôn hạnh được yêu quí nhất trong số 3000 cung phi, được đội ơn ban thưởng hàng trăm lạng vàng. Bà nghĩ: "Tích tiền của chỉ là phô bày hào nhoáng nhất thời, sao bằng kết thân với xóm làng, truyền lại việc hương khói gây được tiếng tăm để lời khen đến vạn đời". Bà bèn chọn nơi có phong tục tốt để xây nhà, xem địa thế chẳng đâu bằng đất Trung Mầu nên năm Quí Mùi(1703) nhân lúc đói kém bà làm phúc cho xã Trung Mầu 400 quan tiền, 4 mẫu 5 sào ruộng tốt.

Tám giáp trong xã đem chia đều từ lớn đến nhỏ, cùng nhau tôn bầu bà làm hậu thần và giao ước rằng: Khi bà còn sống phải thờ bà như bậc cha mẹ kính yêu, đến khi bà mất thì thờ cúng như thần linh.

Ngày 15 tháng 4 năm Canh Dần (1710) khắc bia vào đá để làm lời giao ước vững bền khiến cho công đức muôn đời không dời đổi, kẻ nào không tuân theo có trời đất soi xét, quan tư sẽ khép vào pháp luật. Vậy phải ghi lòng tạc dạ báo đức đền ơn "nhuộm mà không đen, mài mà không mòn, lời giao ước như núi sông, sáng như nhật Nguyệt", nhìn thấy bia tất nhớ đến người thì quí đến bia, chớ vì lâu năm mà chán bỏ, luôn nhớ đến công ơn để lại cùng nhau suy tưởng, càng xa lại càng sáng, càng lâu lại càng thơm, há chẳng tốt đẹp ru nhân khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi

Tục thờ Thành Hoàng ở hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên có nhiều điểm giống nhau. Các ngày lễ đình được qui định rõ ràng hàng tháng vào ngày mồng 1(sóc), vào ngày rằm (vọng) ngày kỵ thánh hay ngày sinh được diễn ra rất long trọng có thể kéo dài từ ba đến 5 ngày gọi là đại lễ. Ngoài ra hai làng còn mở hội vào hai dịp Xuân, Thu, các ngày xuống đồng (gọi là lễ hạ điền), lên đồng cơm mới (gọi là lễ thượng điền). Những sản phẩm làm ra thường được lựa chọn kỹ lưỡng dâng lên cúng Thánh.

Việc chuẩn bị lễ có thể do một gia đình hoặc ban cho một dòng họ trong làng thay mặt tiến lễ, sang năm đến họ khác. Năm ấy họ nào được cúng tiến là niềm hạnh phúc lớn để đáp lễ Đức Thánh đã bảo hộ cho họ mình ăn lên làm ra. Nghi lễ là bước trọng yếu trong ngày hội. Dân làng bầu ra một người có uy tín là chủ lễ đánh ba hồi trống điểm báo với thần linh, đội tế (nam giới), đội dâng hương (nữ giới) lần lượt theo nghi lễ đã qui định, đội thanh nhạc hòa đồng với đội tế làm cho nghi lễ ngày hội càng long trọng.

Trong ngày lễ có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như: đánh cờ, đánh vật, đánh đu, chọi gà, thả chim, hát trống quân, hát tuồng... Có rước sách, có ăn uống linh đình trong dân. Với việc tổ chức long trọng và tỉ mỉ như vậy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong mỗi người. Tục thờ Thành Hoàng ở Trung Mầu nói chung cũng được hòa nhập với cộng đồng người Việt Nam đã có từ lâu đời (thời Hậu Lê). Trung Mầu xưa có một đình, một nghè, hai chùa (một gọi là Chùa Đô, một gọi là chùa Mới nay xây nhà truyền thống của xã). Thịnh Liên có hai đình hai chùa. Theo sắc phong còn để lại cả hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên đều thờ ba vị tướng: Cao Chương Đại Vương, Cao Gia Đại Vương, Tòng Chinh Đại Vương, (thời Đinh). Các vị tướng này đều là nhân vật cụ thể có công đánh giặc giữ nước thuộc địa phận hai làng được nhà vua phong tướng sắc. Riêng làng Thịnh Liên vì đại bộ phận là dân chài còn thờ vị thần: "Hán Giang Thủy Tộc Long Vương". Thời ấy sự ngưỡng mộ Thành Hoàng cũng không kém gì sự ngưỡng mộ tổ tiên của nhân dân hai làng.

Tính đến năm 1975 Trung Mầu có diện tích là 952 mẫu, riêng đất canh tác có 670 mẫu trong đó ruộng trên đồng có 469 mẫu, ngoài bãi có 201 mẫu. Dân số của Trung Mầu có 3750 nhân khẩu. So với ruộng đất bình quân đầu người là 1 sào 8 thước. Ruộng đất trên đồng phần lớn là cấy hai vụ lúa cộng với một số trồng xen thêm vụ màu như tỏi, khoai tây, thuốc lá và các loại ra. Ruộng đất ngoài bãi chủ yếu là trồng ngô, xưa kia có trồng lúa lốc, trồng kê, trồng dâu nuôi tằm. Về sau phát triển mạnh nghề trồng mía ép đường, trồng bắp cải, cà rốt, lạc, ớt xuất khẩu... Năng xuất lúa tốt nhất là 170kg/sào còn thường là 120kg/sào. Bình quân cứ có 3-4 năm được mùa lại có một năm mất mùa vì nhiều sâu cắn gié, hạn hán cháy đồng, lũ lụt. Trên 30% dân thiếu lương thực triền miên. So với diện tích đất đai trong toàn xã thì hồ ao đầm ở Trung Mầu tương đối nhiều, có hơn 100 cái lớn nhỏ chiếm diện tích khoảng 60 mẫu.

Về Nghề nghiệp

Trung Mầu có nghề chăn nuôi lợn nái từ lâu đời. Người ta kể rằng không rõ nghề đó đã thâm nhập vào Trung Mầu từ bao giờ, nhưng là một nghề rất cơ bản vì ngoài việc có phân để bón ruộng họ còn có vốn có món để làm nhà, để lấy vợ cho con. Mỗi gia đình thường nuôi ít nhất là một con, nhiều gia đình nuôi hai con. Hàng năm Trung Mầu đã cung cấp hàng nghìn con lợn giống cho nhân dân trong vùng và các nơi khác. Người xưa ở Trung Mầu đã có câu ca:

"Trung Mầu đi bán lợn con
Bán đắt bán rẻ lon ton chạy về
Trung Mầu đi bán lợn xề
Bán đắt bán rẻ chạy về lon ton"

Từ đó Trung Mầu đã thực sự trở thành "vùng lợn giống" của huyện Gia Lâm.

Nghề đáng kể thứ hai là nghề chăn nuôi vịt. Từ lâu ở đây đã có nhiều lò ấp vịt, mỗi năm đã bán ra ngoài hàng vạn con vịt con, hàng nghìn con vịt thịt. Do việc chăn nuôi vịt phát triển nhiều gia đình đã ăn nên làm ra như có bát cơm ăn, xây được nhà ngói để ở, mua sắm được các dụng cụ sinh hoạt trong gia đình.

Ngoài hai nghề trên còn một nghề đáng kể nữa là nghề nuôi tằm ươm tơ. Tương truyền rằng: Ngày xưa bà Đức Chiêu có đem nghề tằm về đây dạy cho Trung Mầu biết làm ăn và đã được bà con ở đây dựng bia thờ (tấm bia đó hiện còn ở Trung Mầu). Từ lâu nghề nuôi tằm ươm tơ tuy đã bị mai một nhưng vẫn còn lưu truyền trong nhân dân ta cho mãi tới ngày nay.

Năm 1976 Trung Mầu có phát triển thêm một số nghề thủ công khác như nghề nung gạch, nghề thêu ren, quại ngô... Nhiều mặt hàng được đảm bảo kỹ thuật và đã được xuất khẩu đi một số nước trên thế giới.

Trước đây Trung Mầu còn có sới Vật và lò dạy võ. Đặc biệt là Vật một thời đã nổi tiếng ở trong vùng, thanh niên họ đua nhau tham gia tập luyện vừa để nâng cao thể lực vừa vui chơi trong những ngày hội hè. Người thầy dạy võ vật đầu tiên là ông Từ Vũ (hiện còn tấm bia ở Trung Mầu)

Gà chọi, chim bay cũng là sở thích của một số người ở cả hai làng. Hàng năm Trung Mầu thường có mở hội chim, gà chọi vào tháng 4 âm lịch. Ngày hội đông lắm, người các nơi từ Chờ, Chõ, Giốt, Let, Cẩm, Lim, Khắc Liệm, Bái Uyên, Dâu, Keo... đều về đây tham dự hội.

Thời kỳ tiền khởi nghĩa do có chơi gà chọi, chim bay nhà cụ Nguyễn Phú Nghi và cụ Nguyễn Xuân Đống đã có nhiều đồng chí cán bộ của Trung ương, của xứ ủy Bắc Kỳ, của tỉnh Bắc Ninh qua lại mà vẫn che mắt được quân thù.

Tuồng là một trong những hình thức nghệ thuật cổ truyền đặc sắc của dân tộc. Từ lâu ở Trung Mầu đã xuất hiện một vài gánh hát không chuyên nghệ nhân thường ngày làm ruộng, hàng năm xuân thu nhị kỳ họ tụ tập nhau lại chủ yếu vào những ngày hội hè đình đám của làng và các xã phụ cận. Một thời đã có tin gần đồn xa được bà con nhiều nơi tấm tắc khen ngợi một số kép và đào ở Trung Mầu.

Mê tín di đoan là một thói hư tật xấu của xã hội cũ, do giai cấp phong kiến đặt ra để mê hoặc và lừa bịp nhân dân ta. Cả Trung Mầu và Thịnh Liên trước kia đếm đầu ngón tay mới thấy có một vài điện thờ nhỏ và một số cây hương. Thầy bói, thầy cúng, đồng cốt... là những người làm nghề hèn hạ ở Trung Mầu thấy cũng xuất hiện rất ít.

Trung Mầu là một xã có hoàn cảnh địa lý khá đặc biệt nên có ảnh hưởng đến sự phát triển của lịch sử địa phương. Trung Mầu là một xã nằm trong địa bàn cư trú của người Việt cổ, đất đai màu mỡ có truyền thống lâu đời, phong tục tập quán lành mạnh. Cuộc sống lâu đời và đầy sáng tạo đó đã để lại cho nhân dân Trung Mầu một niềm tự hào về tổ tiên, về quê hương của mình...

(Hết chương 1 - Mời bạn ghé đọc Chương 2)

Nguồn Trường THCS Trung Mầu