Trước 1949 và sau
1954, Dũng Vy chỉ là họ lẻ thuộc giáo xứ Cẩm Giang.
Chỉ đến 1949, khi Cha Chính xứ Cẩm Giang là Ngô Văn Yên
thì tòa Giám có cử Cha Phạm Quang Tự (sinh quán Cẩm
Giang) về làm Chính xứ Dũng Vy. Từ 1952 đến 1954 thì Cha
Tự về tòa Giám Mục Bắc Ninh, Cha Yên lại về thay Cha
Tự làm Chính xứ Dũng Vy. Tuy phần lớn thời gian, Dũng
Vy chỉ là họ lẻ, nhưng công việc duy trì và phát triển
Đức tin Kitô Giáo vẫn rất tốt đẹp. Cứ thử tưởng
tượng trước l949, hàng tuần giáo dân Dũng Vy vẫn lũ
lượt kéo nhau đi dâng lễ rất đông tại Cẩm Giang (cách
Dũng Vy khoảng 4 - 5 km), đến sau 1954 còn phải đi xa hơn
nữa, lên tận Bắc Ninh mới có Thánh lễ (cách làng
khoảng 15km). Sau biến cố 1954 có đến gần phân nửa
giáo dân Dũng Vy di cư vào Miền Nam Việt Nam, vậy mà nhà
Chung vẫn được trông coi tươm tất, nhà Thờ sớm tối
vẫn vang lên lời kinh tiếng hát - đèn nến phụng thờ
Thiên Chúa vẫn luôn được thắp sáng và hàng năm vẫn
tổ chức lễ kính Thánh Cả Giuse Quan Thầy Giáo Họ một
cách hết sức long trọng, có Cha Quản Hạt về dâng Thánh
lễ, thậm chí có năm do chínnh Đức Cha Tuyến về Chủ
tế. Và mỗi năm làng như mở hội lớn vào ngày lễ kính
Thánh bổn mạng (Thánh Giuse Thợ 01/05). Sau ngày đất nước
thống nhất, kẻ viết bài này đã hết sức sửng sốt
và thật sự vui mừng khi được biết 21 năm qua, quê nhà
vẫn giữ được nếp Sống Đạo như xưa - thậm chí còn
hơn cả xưa nữa.
Lại nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ của tôi viết cho quê nhà:
Lại nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ của tôi viết cho quê nhà:
Làng tôi đó
- bao thăng trầm lịch sử
Bao sao dời
vật đổi vẫn ung dung
Nối theo hai câu thơ là hình ảnh lớp học tiếng Pháp với Cha Tự, rồi những buổi học hát, những buổi hát lễ Mồ, thấy chúng tôi mệt, Cha thường khôi hài mời chúng tôi ăn sung và khế cùng lúc và thay vì chấm muối như bình thường thì Cha tự tay rót tương cho chúng tôi chấm - có lẽ để bớt vị chua của cây khế nhà Chung vốn dĩ rất chua và bớt đi vị chát của sung xanh - cũng thấy hay hay, nhưng kỷ niệm thì không sao quên được. Đặc biệt vào dịp lễ Giáng Sinh, trời rét ngọt, chúng tôi co ro trong những chiếc áo len đan bằng tay, miệng run lập cập - hai hàm răng đánh đàn - vẫn cố hát theo cái náo nức trong tim trên con đường dẫn đến Thánh Đường: “Đi mau! Vào chầu! Đi đi mau! Vào lậy chầu! Vào hang cung chúc Chúa ta ra đời, để tạ ơn Người đoái thương ta...”.
Nói đến
nhà Thờ, dòng liên tưởng của tôi lại chuyển qua sự
kiện mới xẩy ra cách đây một năm: Công việc trùng tu
Thánh Đường Dũng Vy sau 60 năm xây dựng. Tôi cũng vinh dự
được góp chút tâm huyết vào Ban Cố Vấn vì thấy được
rằng những người con xứ Dũng dù ở bất cứ nơi đâu
- trong bất cứ hoàn cảnh nào - dù chính kiến có thể
bất đồng - nhưng luôn vẫn một lòng nhớ về nơi quê
cha đất tổ, luôn vẫn thể hiện tình đồng hương gắn
bó trong tình yêu Đức Kitô và duy trì đức tin, sống đạo
một cách vững vàng. Xin đọc thêm bài “Lời cảm nhận”
của Tương Giang ĐQT vì trong bài viết này tôi chỉ sơ
lược vài dòng về vấn đề này để còn dành chỗ cho
các sự kiện khác. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây
là kể từ Cụ Tổ của làng đến cắm đất ở Đồng
Vĩnh (thuộc Vĩnh Phú gần núi Cổ Miễu) rồi dần dần
chuyển cư xuống địa giới hiện nay, trải nhiều thế
hệ làng tôi vẫn luôn duy trì và phát triển được đức
tính kiên nhẫn để tồn tại và tự hào.
No comments:
Post a Comment