Thursday, January 31, 2013
Sunday, January 27, 2013
NHẮN VỀ XỨ DŨNG
NHẮN
VỀ XỨ DŨNG
Ai
về biển lúa mênh mông
Xứ
Dũng Vy – lũy tre đông tiếng cườiCho ta gởi chút bồi hồi
Vũng tâm tư của con người phiêu linh
(“Ai Về” - Lam Thy)
Ơi
xứ Dũng năm mươi năm cách trở
Nhớ
về ngươi – Ta vẫn nhớ vô cùngHướng về ngươi trong cả từng hơi thở
Thương về ngươi dù cách núi ngăn sông
Nghè
Mậy – Bờ Cừ – Ông Soi – Đường Bưởi
Cầu
Bạc – Cầu Ve – Cầu Giỏ – Cầu CungCửa Ngõ – Đường Làng – Đường Giồ – Lò Ngói
Chỉ nghe tên đã đủ ấm trong lòng
Và còn nữa... biết bao nhiêu di tích
Đình Thần – Văn Chỉ – Chùa Ngoài – Chùa Trong
Đền Vua – Mả Ngụ – Ngưu Giang – Mả Chúa
Thắm đượm tình yêu: Nhà Thờ – Nhà Chung
Bãi Cò ấy, đáng yêu thay: Xóm Gạ
Gạ bên ngòi cho nước chảy xuôi dòng
Cánh Đồng Thần – nghe sao mà thấy lạ
Đồng của Thần nhân ? Ấn tượng vô song
Còn nhiều nữa... còn thật nhiều dấu ấn
Tuổi thơ xưa từng đã được ươm nồng
Lời mẹ ru âm vang trong xóm nhỏ
Tiếng học bài vang vọng những chiều không
Giọng cầu kinh màn đêm vương vấn mãi
Chuông Thánh Đường hòa lẫn Đại Hồng Chung
Men kỷ niệm trào dâng nồng ấm quá
Sưởi tâm hồn trải suốt kiếp long đong
Năm
nao nhỉ, gió Đông tràn gốc rạ
Áo
đụp nhiều mà người vẫn rung rungRồi bóng Xuân về ửng hồng đôi má
Đường làng quanh co đầy xác pháo hồng
Mùa Hè tới cho tuổi thơ vùng vẫy
Tay vung tay tung tóe nước trên sông
Rồi năm nao nữa mùa Thu vàng võ
Tiếng súng chen nhau khói lửa oi nồng
Bao trai tráng trong làng cùng vắng bóng
Đã lên đường theo tiếng gọi non sông
Một... hai... ba... bốn... Xuân qua Hè tới
Chiến tranh về cây cỏ cũng lao lung
Còn đâu nữa dưới bóng đa mát rượi
Bác nông phu thường nghỉ giấc trưa nồng
Năm
nao nữa... lại mùa Thu ủ rũ
Cho
Bắc Nam đôi ngã những hoài mongCó còn không những đêm trăng rộn rã
Tiếng chày khua tiếng hát Dặm ươm nồng
Điệu Cò Lả vươn cao mùa Hát Ví
Buông điệu trầm Quan Họ tỏa không trung
Ồ lạ nhỉ hát Trống Quân dồn dập
Ruổi Cà kheo người xếp Tháp xoay vòng
Có còn không... có còn không...ước vọng
Lấy hành VI ươm DŨNG khí oai phong
Làng
tôi đó – bao thăng trầm lịch sử
Bao
sao dời vật đổi vẫn ung dungNgạo nghễ một Dũng Vy tràn sức sống
Luôn hiên ngang đối mặt với vô cùng
Ơi xứ Dũng muôn năm đầy thắm thiết
Những người con dù lưu lạc Tây Đông
Vẫn nặng mang tình quê hương bất diệt
Ghi lại đây gọi một nén hương lòng
Nhìn dĩ vãng – mơ tương lai rạng rỡ
Hỡi hồn linh xứ Dũng có nghe không ?
Hạ
chí 2000
(Trích KYDV Số 1, trang 30)
Wednesday, January 23, 2013
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)
Trở lại trên, phần
lớn những chuyện kể đều mang tính huyền sử, để kết
thúc bài này, tôi xin kể câu chuyện có thật 100% nhưng
lại rất khó tin đối với những người chưa có hoặc
chưa vững đức tin Kitô Giáo. Vào cuối năm 1952 (tôi quên
mất ngày tháng), chú em Phan Tự Phiêu - con cô ruột tôi -
đang làm Hương Dũng ở làng tôi. Một hôm đang gác ở
cổng Cầu Ve thì có một anh khoảng trên 30 tuổi, ăn mặc
luộm thuộm, người gầy gò hốc hác đi từ Đại Vy
xuống hỏi em:
- Chú làm ơn cho hỏi
thăm, ở làng ta có miếu nào thờ ông Thần to lớn, râu
tóc bạc phơ, mặc áo nâu, tay trái bế em bé đẹp như
Tây lai, tay phải cầm cành huệ - không, hả chú ?
- Để tôi dẫn anh
vào bác tôi, ông ấy biết rõ hơn tôi.
- Có, để tôi dẫn
chú em đến gặp coi đúng không.
- Thưa cụ, con muốn
cúng tạ ơn ông thần ấy, cụ vui lòng cho con biết là
nên mua hoa trái bánh quả nhang đèn như thế nào ?
- Không biết ông thần
tôi dẫn chú em đến có đúng như chú em muốn tìm không,
vội gì mà mua đồ cúng. Thôi thì tạt qua chợ xem còn
hoa huệ, chú em mua mấy bông cúng là đủ.
- Vậy thì đúng ông
thần này rồi phải không ? Để tôi cho chú em biết tên
ông ấy: Đó là ông Thánh Giuse, quan thầy của làng tôi
đó. Sao, chuyện như thế nào mà chú em cứ lạy ông
Thánh ghê thế ?
- Thưa, để lát nữa
xin phép cụ cho con về nhà cụ, con sẽ kể.
Số là thế này: Cách
đây hơn tháng, con bị đau bụng tháo dạ nặng lắm.
Chiều tối hôm ấy, con hấp hối trên ổ rơm, tự nhiên
nghe thấy tiếng rầm rập ngoài ngõ. Lạ một cái là con
không những nghe rõ tiếng mà còn nhìn rõ - dù con đang
nằm ở trong nhà - một đám quân vận đồ đen cầm giáo
mác, có một ông tướng đội mũ cưỡi ngựa ô đi đầu.
Tới cổng nhà con, ông tướng chỉ roi về phía con nói
với đám quân lính: “Vào bắt thằng này”. Thế là tự
nhiên con vùng đứng dậy đi ra cổng, còn nghe rõ tiếng
vợ con của con khóc gọi theo: “Ới anh ơi, anh nỡ bỏ
em bỏ con mà đi sao anh ơi !”. Tiếng khóc xa dần, con đã
theo đám quân lính ra đường giữa làng và đi về phía
Dũng Vy. Lạ lắm cụ ạ, thường ngày đi đường làng
tới Đình Đại Vy xây chắn ngang đường, con phải đi
đường vòng theo tường Đình mới tới đường đi xuống
Cầu Ve, hôm ấy tự nhiên đám lính và con đi băng qua
Đình mà chẳng thấy vướng víu gì. Đi tới Cầu Ve thì
có tiếng quát dừng lại, chúng con dừng lại ở đầu
cầu phía Tây. Ngẩng lên trông thấy ông Thánh lúc nãy cụ
dẫn con đến gặp đang đứng trên nóc cổng Cầu Ve, con
nghe rõ ông Thánh nói: “Trả thằng này về nhà nó. Cút
đi !”. Vừa nói ông Thánh vừa cầm cành huệ chỉ vào
con. Ông tướng mặt đen chẳng nói chẳng rằng quay đầu
ngựa lại theo lối cũ. Đến đầu ngõ nhà con thì mấy
tên quân đi cạnh con đẩy con một cái vào ngõ. Con đi
đến gần cổng thấy trời đã sắp sáng, vợ con vẫn
lăn lộn khóc gọi. Mở mắt ra, quay đầu nhìn lại vẫn
thấy mình nằm trên ổ rơm. Bỗng nhiên thấy vợ con
ngưng bặt tiếng khóc rồi vùng té chạy, gào to: “Ối
chú ơi, anh chú bị quỷ nhập tràng rồi”. Con càng thấy
lạ lắm, con có chết đâu mà bị quỷ nhập tràng. Em
trai con nghe vợ con gọi, liền cầm con dao phay nhảy đứng
dạng háng trên người con giơ cao con dao lên và hét: “Mày
phải quỷ nhập tràng không ? Nói ngay, không tao chém”.
Con muốn nói cho em nó biết nhưng không nói được vì cổ
đã khô cứng. Con ngáp ngáp mồm chớp chớp mắt ra hiệu
xin nước. Nó hiểu ra và lấy nước. Uống xong, con nói
được và phều phào kể lại đầu đuôi cho cả nhà
nghe. Đến lúc đó con mới biết là con đã chết từ
chiều hôm trước và nếu nhà không nghèo quá thì đã
được bó chiếu chôn ngay tối hôm qua rồi. Chiếu cũng
không có chứ đừng nói là quan tài. Cũng may ! Và con biết
được ông Thánh Giuse ở làng cụ đã cứu con, con đã
hỏi cả xóm con ở nhưng không ai biết. Hôm nay mới quyết
định xuống đây và được gặp cụ. Quý hóa quá ! Con
cám ơn cụ.
Như đã nói ở trên,
chuyện này có thật 100% vì chính tôi được chứng kiến,
mặc dù hồi đó tôi còn nhỏ (14 tuổi). Sau này, tôi có
được nghe thân phụ tôi kể lại mấy lần. Và một nhân
chứng sống động nhất vẫn còn sống, đó là người em
cô cậu của tôi: Phan Tự Phiêu hiện đang sinh sống ở
Liên Khương - Đà Lạt. Kể lại chuyện này, tôi muốn
nói với mọi người rằng sở dĩ tôi có được một đức
tin rất mãnh liệt là cũng nhờ vào những chuyện tương
tự củng cố, cho nên dù ở bất cứ thời điểm nào tôi
luôn luôn khai rõ với chữ in hoa trong lý lịch, nơi mục
tôn giáo: Thiên Chúa Giáo, một mục mà tôi đã thấy có
nhiều người hay ghi: Không Tôn Giáo. Tôi lại nhớ đến
lời Đức Kitô nói với Thomas: “Thomas, bởi vì con đã
thấy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Bây giờ thì xin được
thay vào tiếng “tôi” đơn lẻ bằng một đại từ xưng
hô khác “chúng tôi”, bởi vì tôi và chúng tôi cũng chỉ
là một: Đồng hương Dũng Vy. Vâng, chúng tôi - những
người đã bước qua ngưỡng cửa “lục thập nhi nhĩ
thuận” - xin được đặt ở đây một câu hỏi: Tiền
nhân xứ Dũng là như thế đó, các lớp hậu duệ nghĩ
sao ?
Hạ Chí 2000
19.06.2000XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
Nói về hàng Mục tử
thì từ ngày Thôn Ngoài tòng giáo, trên Tòa Giám Mục Bắc
Ninh có các Đức Giám Mục: Đức cha Lễ, Đức cha Khâm,
Đức cha Phúc, Đức cha Chỉnh (4 Đức cha gốc Y Pha Nho -
Espagnã - Tây Ban Nha, lấy tên Việt Nam), Đức Cha Hoàng
Văn Đoàn, Đức Cha Khuất Văn Tạo, Đức Cha Phạm Đình
Tụng, Đức Cha Nguyễn Quang Tuyến. Về các Linh mục thì
có quí Cha: Cha già Khải, Cha già Đoán, Cha già Chấn, Cha
Châu, Cha Liêm, Cha Nghĩa, Cha Mẫn, Cha Yên, Cha Tự... Đến
quí Thầy thì có: Thầy già Tín, Thầy già Xuân, Thầy già
Huệ, Thầy Ước, Thầy già Cửu, Thầy Trạch, Thầy Nhật,
Thầy Xướng... Hàng giáo dân tham gia Mục vụ thì tiên
khởi có cụ Phó Trương Cả già (Chánh Trương là người
ở chính xứ Cẩm Giang, Dũng Vy là họ lẻ nên chỉ có
đến Phó Trương là lớn nhất), tiếp theo là các cụ:
Phó Trương Nghìn, P.Trương My, P.Trương Tể.
Nối theo hai câu thơ là hình ảnh lớp học tiếng Pháp với Cha Tự, rồi những buổi học hát, những buổi hát lễ Mồ, thấy chúng tôi mệt, Cha thường khôi hài mời chúng tôi ăn sung và khế cùng lúc và thay vì chấm muối như bình thường thì Cha tự tay rót tương cho chúng tôi chấm - có lẽ để bớt vị chua của cây khế nhà Chung vốn dĩ rất chua và bớt đi vị chát của sung xanh - cũng thấy hay hay, nhưng kỷ niệm thì không sao quên được. Đặc biệt vào dịp lễ Giáng Sinh, trời rét ngọt, chúng tôi co ro trong những chiếc áo len đan bằng tay, miệng run lập cập - hai hàm răng đánh đàn - vẫn cố hát theo cái náo nức trong tim trên con đường dẫn đến Thánh Đường: “Đi mau! Vào chầu! Đi đi mau! Vào lậy chầu! Vào hang cung chúc Chúa ta ra đời, để tạ ơn Người đoái thương ta...”.
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)
Trước 1949 và sau
1954, Dũng Vy chỉ là họ lẻ thuộc giáo xứ Cẩm Giang.
Chỉ đến 1949, khi Cha Chính xứ Cẩm Giang là Ngô Văn Yên
thì tòa Giám có cử Cha Phạm Quang Tự (sinh quán Cẩm
Giang) về làm Chính xứ Dũng Vy. Từ 1952 đến 1954 thì Cha
Tự về tòa Giám Mục Bắc Ninh, Cha Yên lại về thay Cha
Tự làm Chính xứ Dũng Vy. Tuy phần lớn thời gian, Dũng
Vy chỉ là họ lẻ, nhưng công việc duy trì và phát triển
Đức tin Kitô Giáo vẫn rất tốt đẹp. Cứ thử tưởng
tượng trước l949, hàng tuần giáo dân Dũng Vy vẫn lũ
lượt kéo nhau đi dâng lễ rất đông tại Cẩm Giang (cách
Dũng Vy khoảng 4 - 5 km), đến sau 1954 còn phải đi xa hơn
nữa, lên tận Bắc Ninh mới có Thánh lễ (cách làng
khoảng 15km). Sau biến cố 1954 có đến gần phân nửa
giáo dân Dũng Vy di cư vào Miền Nam Việt Nam, vậy mà nhà
Chung vẫn được trông coi tươm tất, nhà Thờ sớm tối
vẫn vang lên lời kinh tiếng hát - đèn nến phụng thờ
Thiên Chúa vẫn luôn được thắp sáng và hàng năm vẫn
tổ chức lễ kính Thánh Cả Giuse Quan Thầy Giáo Họ một
cách hết sức long trọng, có Cha Quản Hạt về dâng Thánh
lễ, thậm chí có năm do chínnh Đức Cha Tuyến về Chủ
tế. Và mỗi năm làng như mở hội lớn vào ngày lễ kính
Thánh bổn mạng (Thánh Giuse Thợ 01/05). Sau ngày đất nước
thống nhất, kẻ viết bài này đã hết sức sửng sốt
và thật sự vui mừng khi được biết 21 năm qua, quê nhà
vẫn giữ được nếp Sống Đạo như xưa - thậm chí còn
hơn cả xưa nữa.
Lại nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ của tôi viết cho quê nhà:
Lại nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ của tôi viết cho quê nhà:
Làng tôi đó
- bao thăng trầm lịch sử
Bao sao dời
vật đổi vẫn ung dung
Nối theo hai câu thơ là hình ảnh lớp học tiếng Pháp với Cha Tự, rồi những buổi học hát, những buổi hát lễ Mồ, thấy chúng tôi mệt, Cha thường khôi hài mời chúng tôi ăn sung và khế cùng lúc và thay vì chấm muối như bình thường thì Cha tự tay rót tương cho chúng tôi chấm - có lẽ để bớt vị chua của cây khế nhà Chung vốn dĩ rất chua và bớt đi vị chát của sung xanh - cũng thấy hay hay, nhưng kỷ niệm thì không sao quên được. Đặc biệt vào dịp lễ Giáng Sinh, trời rét ngọt, chúng tôi co ro trong những chiếc áo len đan bằng tay, miệng run lập cập - hai hàm răng đánh đàn - vẫn cố hát theo cái náo nức trong tim trên con đường dẫn đến Thánh Đường: “Đi mau! Vào chầu! Đi đi mau! Vào lậy chầu! Vào hang cung chúc Chúa ta ra đời, để tạ ơn Người đoái thương ta...”.
Nói đến
nhà Thờ, dòng liên tưởng của tôi lại chuyển qua sự
kiện mới xẩy ra cách đây một năm: Công việc trùng tu
Thánh Đường Dũng Vy sau 60 năm xây dựng. Tôi cũng vinh dự
được góp chút tâm huyết vào Ban Cố Vấn vì thấy được
rằng những người con xứ Dũng dù ở bất cứ nơi đâu
- trong bất cứ hoàn cảnh nào - dù chính kiến có thể
bất đồng - nhưng luôn vẫn một lòng nhớ về nơi quê
cha đất tổ, luôn vẫn thể hiện tình đồng hương gắn
bó trong tình yêu Đức Kitô và duy trì đức tin, sống đạo
một cách vững vàng. Xin đọc thêm bài “Lời cảm nhận”
của Tương Giang ĐQT vì trong bài viết này tôi chỉ sơ
lược vài dòng về vấn đề này để còn dành chỗ cho
các sự kiện khác. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây
là kể từ Cụ Tổ của làng đến cắm đất ở Đồng
Vĩnh (thuộc Vĩnh Phú gần núi Cổ Miễu) rồi dần dần
chuyển cư xuống địa giới hiện nay, trải nhiều thế
hệ làng tôi vẫn luôn duy trì và phát triển được đức
tính kiên nhẫn để tồn tại và tự hào.
Subscribe to:
Comments (Atom)