Wednesday, January 23, 2013

XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)

Thu hẹp phạm vi bài viết này, xin nói về Thôn Ngoài - Thôn Giáo với Ngôi Thánh Đường 60 tuổi vừa được trùng tu năm 1999 - cũng chính là cái nôi kẻ viết bài này chào đời và được nuôi dưỡng, ấp ủ cả quãng đời niên thiếu. Một ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi là năm khánh thành Ngôi Thánh Đường Dũng Vy cũng là năm tôi cất tiếng khóc chào đời (1939 - Kỷ Mão). Đó cũng chính là năm chú ruột của tôi (ông Đinh Văn Sách) về làng mở tiệc khao mừng chức chánh quản (một chức vụ tương đương với Quan Tứ phẩm trong Triều đình Phong kiến). Biết bao nhiêu cảm xúc, biết bao nhiêu hồi ức, hoài tưởng, kỷ niệm dồn dập xô tới như những ngọn triều cứ càng lúc càng lớn, càng lúc càng trào dâng. Ký ức thì thật nhiều nhưng không hiểu tôi còn đủ khả năng ghi lại đầy đủ và có trình tự được như một cuốn phim không ? Vẫn tràn đầy những màu hồng của tuổi ngọc và màu xanh lớp lớp của hy vọng thanh xuân.

Nói về Thôn Ngoài, xin khởi từ ngày tòng giáo. Nguyên cả cánh đồng màu mỡ ôm lấy lũy tre làng phía Bắc và một phần phía Đông, là đất canh tác của cả 2 thôn: Thôn Ngoài và Thôn Trong. Còn Thôn Đinh thì có cánh đồng phía Nam của làng trải dài đến sát bờ đê sông Đuống. Tất nhiên cánh đồng nào cũng có tư điền và công thổ. Tư điền là của riêng từng nhà dân. Còn công điền công thổ là ruộng đất chung của làng. Công điền của 2 Thôn Ngoài và Thôn Trong nằm ở Đường Giồ, nơi những thửa ruộng được xếp vào loại Thượng đẳng điền. Do có chia thôn nên cũng phải chia công điền theo tỷ lệ dân số. Dân Thôn Ngoài ít nên nhận được phần công điền nhỏ hơn, đó cũng là lẽ thường. Nhưng càng về sau càng bị chèn ép theo cái thế “cả vú lấp miệng em”, “cá lớn nuốt cá bé” của Thôn Trong. Tức nước vỡ bờ - việc lên quan mà quan thì cứ “nắm kẻ có tóc”, chứ ai lại “nắm kẻ trọc đầu”. Cho nên việc kiện tụng cứ mãi là “kiện củ khoai”. Mà thời gian càng kéo dài thì “kẻ có tóc” càng có lợi thế. Thôn Ngoài càng lúc càng bị lép vế, đành dùng mưu trí, bám lấy các vị Cố Đạo vì ở thời điểm này, các vị ấy có rất nhiều uy thế với Chính quyền. Một thỏa thuận được giao kết: Dân Thôn Ngoài thắng kiện thì sẽ tòng giáo. Đó là thời gian Đức Giám Mục Chỉnh đang đảm nhiệm Tông Tòa Bắc Ninh. Thôn Ngoài tòng giáo từ đó (vào khoảng thập niên 80 thế kỷ XVIII). Người Thầy tiên khởi được cử về dạy kinh hạt giáo lý cùng các nghi thức tế lễ Kitô Giáo là Thầy già Tín. Vì thế, sau này khi Thầy già Tín qua đời thì cả thôn đều chọn ngày 20-11 âm lịch (ngày tạ thế của Thầy) làm ngày giỗ chung, coi như giỗ Tổ vậy. Ngôi Thánh Đường đầu tiên năm gian lợp tranh được dựng lên trên khu đất rộng khoảng nửa hécta nằm gần phía Đông Thôn Ngoài, phía Bắc giáp lũy tre làng, phía Nam giáp con đường Đông Tây giữa làng. Nhà thờ làm dọc theo hướng Đông Tây, gần với đường giữa làng, hai đầu hồi trát vách đất kín, hai hướng Nam và Bắc trổ nhiều cửa phần lớn đều bằng phên tre. Về sau cũng trên nền cũ, nhà thờ được xây bằng gạch lợp ngói cũng năm gian, làm cửa gỗ suốt hai hướng Nam Bắc (cửa bức bàn), hai đầu hồi xây kín có tô những hình cửa giả. Còn làm thêm hai tảo mạc Đông Tây thành hình chữ U hướng về Nam, sát đường làng có xây tường và trổ cổng, đối diện với cổng - bên kia đường làng - xây một cái giếng khá lớn, đường kính lòng giếng khoảng 2m. Giếng sau này không dùng được vì liền với ao làng, nước bị ô nhiễm nặng. Lối kiến trúc này vẫn dựa trên nền kiến trúc cổ Đông Phương và mang phong cách VN (kiến trúc Đình) khá rõ nét. Tuy nhiên, nét hoành tráng thanh thoát của phong cách kiến trúc Tây Phương cũng đã được manh nha (nhà thờ và hai tảo mạc đều dùng tường đứng, mái phẳng và thẳng góc, chứ không dùng kiểu mái cong, tường trạm trỗ...). Đến thời Cha J.M Nguyễn Khắc Mẫn về làm chính xứ, hai tảo mạc được rỡ đi (bán cho 2 người: Ô. Trùm Đụng Nguyễn Đình Sính - và ông Xếp - Đinh Văn Khúc). Tới khoảng năm 1938, cha chính Mẫn hợp cùng dân họ xây dựng ngôi Thánh Đường theo hướng Bắc (đầu nhà thờ) Nam (cuối nhà thờ) ở chính giữa khuôn viên đất. Ngôi nhà thờ 5 gian cũ vẫn để lại làm trường học (đến đầu năm 1952 thì bị phá bỏ do chính biến, các cụ gom góp lại đem vào trùng tu ngôi nhà xứ cũng đã xuống cấp nặng nề. Ngôi nhà xứ được xây lại có ghi trên bậu cửa chính hướng Nam: “Trọng Thu Nhâm Thìn - 1952” tồn tại đến ngày nay). Thánh Đường mới được khánh thành năm 1939 mang phong cách Thánh Đường Phương Tây (La Mã), với thời điểm đó phải nói là rất uy nghi tráng lệ nổi tiếng khắp vùng. Nếu đem so với nhà thờ Cẩm Giang thì nhà thờ Dũng Vy đã cách tân hoàn toàn. Nhà thờ Cẩm Giang còn mang đậm dấu ấn cổ Đông Phương, cả bên ngoài lẫn bên trong (như bàn thờ vẫn còn sơn son thiếp vàng) thì ở Dũng Vy từ bàn thờ đến tượng Thánh đều được xây đắp, tô đúc rất đẹp. Phía Bắc, đầu nhà thờ là nhà Chung với ngôi nhà chính cũng 5 gian xây hướng Nam. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ ngôi nhà này xây theo lối cổ, chạy hiên đủ 4 mặt, trong nhà thì làm trần bằng cót và hoa văn trang trí được tượng hình bằng Dịch Số (ở giữa trần là hình âm dương, tứ phía là các chữ Càn ☰, Khảm ☵, Cấn ☶, Chấn ☳, Tốn ☴, Ly ☲, Khôn ☷, Đoài ☱ đủ bát quái tự viết đúng theo lối chữ triện của Dịch số) nhìn tổng thể thì nhà Chung + Nhà thờ + Trường học (Nhà thờ cũ) hợp thành chữ Công rất có ý nghĩa (xin mở ngoặc nói thêm về Cha Chính Mẫn: Ngài có bốn nghĩa tử là Công, Minh, Chính, Trực)

  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)
  • ĐẤT CỔ VIỆT YÊN XỨ KINH BẮC



    Published on May 2, 2012
    Việt Yên là một huyện đồng bằng, nằm ở phía tây tỉnh Bắc Giang. Đây là huyện có nhiều làng quan họ nhất ở vùng văn hóa Kinh Bắc với 19 làng quan họ đã được UNESCO đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại .Việt Yên là huyện nằm ven sông Cầu, có địa giới hành chính như sau:
    Phía nam giáp tỉnh Bắc Ninh,
    Phía tây giáp huyện Hiệp Hòa,
    Phía đông giáp huyện Yên Dũng,
    Phía bắc giáp huyện Tân Yên và thành phố Bắc Giang.
    Các đơn vị hành chính gồm
    Hai thị trấn là: Thị trấn Bích Động (huyện lị), thị trấn Nếnh,
    Các xã: Quang Châu, Ninh Sơn, Tiên Sơn, Trung Sơn, Bích Sơn, Nghĩa Trung, Hồng Thái, Tăng Tiến, Quảng Minh, Vân Hà, Vân Trung, Việt Tiến, Thượng Lan, Minh Đức, Tự Lan, Hương Mai, Hoàng Ninh, Nếnh.
    Di tích lịch sử
    Việt Yên có nhiều ngôi đình không những mang giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu mà còn trở thành biểu trưng văn hóa của làng xã Việt Nam như đình Thổ Hà (Vân Hà - Việt Yên) xây dựng năm 1686; đình Đông (Bích Động - Việt Yên). Nhiều ngôi chùa ở Việt Yên cũng đã được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo Việt Nam như: chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn - Việt Yên), chùa Vĩnh Hưng Tự (thôn Khả Lý thượng, xã Quảng Minh, Việt Yên), chùa Sùng Nghiêm Tự và đìng làng (thôn Vân Cốc, xã Vân Trung, Việt Yên) được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Đặc biệt vào ngày 16, 17, 18 tháng 2 âm lịch tại 2 chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn) và Sùng Nghiêm Tự (thôn Vân Cốc, xã Vân Trung) có ngày hội lớn, tại thôn Vân Cốc, xã Vân Trung có lễ rước thánh rất trang nghiêm.
    Các làng quan họ Bắc Giang
    Việt Yên là huyện có nhiều làng quan họ nhất ở vùng văn hóa Kinh Bắc. Hiện nay, tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, thì Việt Yên có tới 19 làng quan họ cổ (Toàn vùng Kinh Bắc hiện có 67 làng, trong đó: Yên Phong có 16 làng, Từ Sơn có 3 làng, Tiên Du có 11 làng, thành phố Bắc Ninh có 14 làng, Yên Dũng có 2 làng, Hiệp Hòa có 2 làng).
    19 làng quan họ Bắc Giang ở Việt Yên gồm: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ, Mật Ninh, Quang Biểu, Núi Hiểu, Tam Tầng, Thổ Hà, Tiên Lát Thượng, Tiên Lát Hạ, Thần Chúc, Yên Ninh, Trung Đồng, Vân Cốc, Đình Cả, Đông Long, Khả Lý Thượng.
    Kinh tế và giáo dục
    Hiện nay Việt Yên đang trên đà phát triển. Điển hình là khu công nghiệp Đình Trám (Nhà máy ô tô Hyundai lớn nhất Việt Nam), Khu công nghiệp Hoàng Mai. Khu công nghiệp Quang Châu đã đưa vào sử dụng, với số lượng công nhân làm việc lên tới hơn 10.000 lao động (số liệu tháng 11/2011). Ngoài ra còn có Quảng Minh với những làng rau xanh lớn vào loại nhất khu vực miền bắc: Đông Long, Mật Ninh, Khả lý Thượng, Hạ... cung cấp ra cho cho hầu hết miền bắc và xuất khẩu. Nơi phát lưu truyền những làn điệu quan họ của Kinh Bắc xưa ven dòng sông Cầu huyền thoại và lịch sử. Giáo dục có tất cả 4 trường THPT: Việt Yên Số 1, 2, Lý Thường Kiệt, Tư Thục, và một trường Cao đẳng Nông Lâm, chất lượng giáo dục của trường THPT Việt Yên số 1 được xếp vào tốp đầu của tỉnh!
    Danh nhân
    Thân Nhân Trung.
    Anh hùng Nguyễn Văn Cốc.
    Quận công Dương Quốc Cơ (người làng Vân Cốc, xã Vân Trung - sinh trưởng trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học. Quận công Dương Quốc Cơ là đời thứ 8 của họ Ngô chuyển từ Hưng Yên đến, do các đời trước các cụ tổ làm trung thần cho vua Mạc Đăng Dung nên phải đổi họ sang Dương)
    Nhà văn Đỗ Chu

    Sunday, January 20, 2013

    XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)

    Tôi đã có hơi dài dòng - mà nói về quê hương thì ngại chi dài dòng - nhưng vẫn chỉ một mục đích: để con cháu đời sau có thể hình dung nơi quê cha đất tổ với một niềm tự hào trên thực tế, chứ không chỉ bằng huyễn hoặc.

    Bây giờ thì xin nói thẳng vào Dũng Vy, vào trong làng với cả hình thức lẫn nội dung: Xét về đại thể và theo đúng phương pháp họa đồ quốc tế (phương Bắc ở trên, Nam ở dưới, Đông phải, Tây trái) thì Dũng Vy giống như một cỗ xe: đầu xe là Xóm Đông và Cầu Giỏ, thùng xe là Thôn Ngoài, thân xe là Thôn Trong, bánh xe là Thôn Đinh, bánh xe dự phòng (secours) là xóm Gạ. Cỗ xe đang chạy trên con đường thiên lý là dải đê sông Đuống. Đang oai Dũng tiến thẳng về phía Đông (hướng Mặt Trời mọc - hướng đại cát trong Dịch số - Kinh Dịch). Chi tiết hơn, Dũng Vy có 3 thôn (nhất xã tam thôn): thôn Giáo (Ngoài), thôn Lương (Trong) và thôn Đinh. Trước kia vẫn gọi theo hệ thống hành chính phong kiến là: Làng Dũng Vy - xã Dũng Vy - huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh. Sau CMT8/1945 đổi xã thành Tri Phương. Sau 1954, đổi tỉnh thành Hà Bắc và huyện sáp nhập với huyện Từ Sơn đổi thành huyện Tiên Sơn. Nhưng đến cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX lại gọi lại như cũ = Dũng Vy - Tiên Du - Bắc Ninh. Vậy là Dũng Vy vẫn là Dũng Vy, mãi mãi vẫn là Dũng Vy, dù trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, biết bao dâu biển sao dời vật đổi. Làng được bao bọc bởi một lũy tre rất kiên cố (theo truyền ngôn thì lũy tre này rất dày và rất lớn, có 2 lớp tre đan kín thành vòm che con đường giữa lũy rộng khoảng gần 2m để tuần đinh đi tuần quanh làng phòng trộm cướp), sau này (khoảng thập kỷ 10 - thế kỷ XX), lũy tre chỉ còn lớp ngoài và con đường đi tuần nằm vào phía trong lũy (chứ không nằm giữa lũy như xưa). Làng có 2 con đường lớn: một đường Đông Tây chạy thẳng từ cổng Cầu Giỏ tới cổng Cầu Ve, một đường Bắc Nam nối với đường Đông Tây ở ngã ba chợ giữa làng chạy thẳng tới cổng Cầu Cung, qua Đinh thôn tới tận đê sông Đuống. Nếu nhìn từ trên xuống theo đúng họa đồ vị trí, thì 2 con đường này họp thành chữ Đinh (). Phải chăng vì thế mà thôn nằm kề chân của chữ () gọi là thôn Đinh ? Quả thực, càng tìm hiểu, càng suy nghĩ, càng thấy kỳ thú. Ngoài 3 cổng làng đã nói ở trên, còn 3 cổng nữa: một ở góc Đông Nam gọi là Cửa Đông, một ở góc Tây Nam gọi là Cửa Đồng Thần và một ở góc Tây Bắc gọi là Cửa Ngõ.

    Làng có một ngôi Đình rất lớn sát lũy tre phía Nam gần cổng Cầu Cung với hai tảo mạc rất khang trang. Đình hướng Nam, cổng xây theo lối Tam Quan (3 cửa), trước cổng xây một cái giếng thả sen có đủ Tam Cấp và Thủy Tạ. Phía sau Đình là một ngôi Chùa (có lối đi riêng) gọi là Chùa Trong, và một ngôi Chùa nữa nằm giữa cánh đồng ngăn cách thôn Trong và thôn Đinh gọi là Chùa Ngoài. Ngay giữa làng, chỗ tiếp giáp ngã ba giữa hai con đường Đông Tây và Nam Bắc, có một Văn Chỉ khá lớn dưới bóng những cây si cổ thụ. Xin dừng ở đây để nói rõ hơn về Đình - Chùa - Văn Chỉ, mà nhiều người vẫn ngộ nhận đó là của Phật Giáo. Thực ra, chỉ có Chùa là của Phật Giáo thôi. Còn Đình, là một nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Đình không phải là nơi thờ Phật mà là nơi thờ các vị tiền bối có công lớn với làng (cụ thể là Thành Hoàng: những người có công lớn trong làng đã quá cố, được Triều đình sắc phong làm thần bảo hộ làng, và làng có bổn phận phải thờ cúng quanh năm). Vì thế mỗi ngôi Đình của mỗi làng thờ một vị thần riêng của làng, chứ không như tất cả các ngôi Chùa đều thờ Phật.

    Đình còn là nơi tụ hội mỗi khi làng có hội hè đình đám và ở mỗi ngôi Đình có một ông Đám trông coi, chứ không có Sư trụ trì. Còn nói về Văn Chỉ thì lại khác hẳn. Văn Chỉ xuất phát từ Khổng Giáo và hoàn toàn chú trọng vào Văn học (Khổng Tử chủ trương NHẬP THẾ chứ không XUẤT THẾ như Phật Thích Ca hoặc Lão Tử), Văn Chỉ không phải là nơi thờ thần (Khổng Tử đã từng nói: “Kính quỉ thần nhi viễn chi” - Kính trọng quỉ thần từ xa xa - ý muốn nói: “Tôi không muốn bàn đến quỉ thần” hoặc “tôi không hẳn là không tin có quỉ thần mà cũng không hẳn là tin có quỉ thần - xin đừng bắt tôi phải nói về quỉ thần”). Văn Chỉ là nơi để tế lễ tưởng nhớ các vị Tiên Hiền Nho Giáo, có thể dùng làm nơi tụ họp các nho sinh bình văn đọc sách, vì thế trong Văn Chỉ có những bệ xây theo những hình khối nhất định - thường là những hình lập phương - và trên bệ không hề có để tượng thờ một vị thần (khi tế lễ mới rước tượng Khổng Phu Tử, Mạnh Tử hoặc một danh nho VN như Chu Văn An ra để trên bệ mà tế lễ thôi). Văn Chỉ thường chỉ có ở những làng trọng văn học và có những bậc Đại Khoa (Cử nhân, Tiến sĩ hoặc ít ra cũng Tú tài). Dũng Vy tuy chưa có các bậc Đại Khoa, mới chỉ có các vị Khóa sinh (đỗ trong phạm vi Tỉnh) như cụ Thủ Hiệu (Thôn Ngoài), cụ Chánh Hội Niên (Thôn Trong) mà đã xây Văn Chỉ, chứng tỏ rằng Dũng Vy rất coi trọng Văn học. Và cả một vùng rộng lớn cũng mới chỉ có một Văn chỉ Dũng Vy, điều này đủ cho các thế hệ sau tự hào về cha ông của mình.

    Câu nói ở trên của tôi về làng tôi (“nôi trong nôi” - cái “nôi văn hóa làng tôi” trong cái “nôi văn hóa Kinh Bắc”) tưởng cũng không ngoa lắm vậy ! Sau l954, Dũng Vy đã có các bậc Đại Khoa (không phải Đại Khoa Nho giáo vì Nho học đã bị bãi bỏ ở nước ta từ đầu thế kỷ XX theo trào lưu tiến hóa chung của Thế giới) hậu bối như: Đinh Văn Đích (ĐHSP khoa Sử - tương đương cử nhân Sử), Đinh Văn Bảo (Võ bị LQ. Đàlạt - tương đương cử nhân), Đinh Văn Diệm (Cử nhân giáo khoa Văn Chương Việt Hán), Đinh Công Luy (Cử nhân Sử), Nguyễn Văn Hùng (tức Duyến - con ông Hội Gioan - Kỹ sư Cầu đường) - Lớp hậu duệ sau nữa thì có rất nhiều kỹ sư, giáo sư, dược sĩ... Đó phải chăng là những thành quả tốt đẹp sinh sôi nảy nở từ cái nôi trọng Văn học của Văn Chỉ Dũng Vy ?

  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)

    Xa về phía Tây chút nữa là Đình Bảng - quê hương vua Thái Tổ nhà Lý: Lý Công Uẩn. Dã sử kể: Hồi nhỏ Lý Công Uẩn là một chú tiểu nhỏ ở Chùa Hộ Pháp thuộc Đình Bảng (Pháp Tăng là sư trụ trì). Lý Công Uẩn rất thích ăn oản, mà lại chỉ thích ăn... trộm. Cứ tối tối Lý tiểu ta có nhiệm vụ thắp nhang đèn trên đại điện, thế nào cũng mò tới mấy miếng oản cúng Hộ Pháp và để thay vào đó bằng mấy miếng... đất sét. Không ai phát giác được. Tức vì oản thực chẳng được ăn, chỉ ăn toàn oản đất sét, Hộ Pháp báo mộng cho Pháp Tăng: “Nhà ngươi có làm thế nào, nếu không thì ta đến chết đói mất. Bao nhiêu oản nhà ngươi cúng cho ta đều bị Hoàng Đế lấy ăn hết sạch". Pháp Tăng lấy làm lạ, trong chùa thì ngoài sư ra, có một vãi già nấu cơm, bác Mộc lực điền lo việc ruộng nương và một chú tiểu oắt, đào đâu ra Hoàng Đế ? Bèn để tâm rình và bắt được tại trận tên trộm oản, đè ra nện cho một trận thẳng tay. Lý tiểu ta cay lắm, sáng hôm sau lên chùa thắp nhang định tâm tát cho Hộ Pháp mấy tát, nhưng Hộ Pháp to cao quá, tát không tới đành ra sau lưng đạp cho 3 đạp, rồi lấy ngón tay thấm nước bọt viết lên lưng Phật 4 chữ: “Đầy tam thiên lý” (đầy đi 3000 dặm), mồm lẩm bẩm: “Mẹ kiếp, mi là đất sét thì ăn đất sét là đúng quá rồi, còn kêu ca nỗi gì khiến sư phụ đánh ta một trận tơi bời. Ta lưu đày mi ra ngoài 3000 dặm cho bõ ghét !”. Đêm sau sư Pháp Hoa lại được báo mộng: “ Ta bị Hoàng Đế đạp 3 đạp chỉ vì không chịu ăn oản đất sét, lại còn bị lưu đầy 3000 dặm. Thôi, vĩnh biệt !”. Sau đó, nhà sư có lên coi tượng và đọc được 4 chữ Lý Công Uẩn viết sau lưng. Nhà sư hơi nhột, lấy khăn lau hoài mà chữ vẫn rõ mồn một, không sao sạch được. Dần dần, tượng Hộ Pháp rệu rã như đất sét gặp mưa thành một đống. Đến khi ấy, sư mới thật sự sợ hãi và tin rằng chú tiểu có khí mệnh Đế Vương. Tới khi Lý Công Uẩn trở thành Đại Tướng Triều Lê cầm quân đánh Chiêm Thành, rồi về lật đổ Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh) chính thức lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Lý Thái Tổ (Vua đầu tiên Triều Lý), lập triều đình ở Đình Bảng, nhưng sau đó thác mộng thấy rồng bay lên ở thành Đại La, liền xuống chiếu dời đô về Đại La. Đổi tên Thành Đại La là Thăng Long Thành (cho ứng với điềm mộng). Kinh đô nước ta từ đó có tên Thăng Long.

    Như vậy thì phải nói Dũng Vy nằm giữa một cái nôi văn hóa (“nôi trong nôi” vậy !). Sợ bài viết quá dài nên tôi còn chưa đào sâu thêm vào cái tên “nôi văn hóa”. Chỉ biết rằng Kinh Bắc cũng chính là quê ngoại của Nguyễn Du - một đại thi hào Việt Nam không tiền khoáng hậu. Kinh Bắc cũng là quê hương của ca trù, của dân ca quan họ. Không những thế, dựa vào dãy núi hình cánh cung phía Bắc của Dũng Vy (núi Chè, Cổ Miễu...), trên có sông Cầu, dưới có sông Đuống, Lý Thường Kiệt đã lập nên “phòng tuyến sông Cầu” để ngăn chống giặc Tống xâm chiếm nước ta. Lý Thường Kiệt là một danh tướng văn võ toàn tài, đã từng cầm quân đánh cả sang Tàu chiếm được Châu Ung, Châu Liêm, với câu nói bất hủ “Muốn phòng thủ chắc chắn, hãy tấn công vào hang ổ địch” và một bài thơ tuyệt tác:

    Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !”

    Tạm dịch:
    Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Phận định tất nhiên tại sách trời
    Giả thử giặc thù xâm phạm mãi
    Tụi bay sẽ bị đánh tơi bời !

  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)