Wednesday, January 23, 2013

XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)

Trở lại trên, phần lớn những chuyện kể đều mang tính huyền sử, để kết thúc bài này, tôi xin kể câu chuyện có thật 100% nhưng lại rất khó tin đối với những người chưa có hoặc chưa vững đức tin Kitô Giáo. Vào cuối năm 1952 (tôi quên mất ngày tháng), chú em Phan Tự Phiêu - con cô ruột tôi - đang làm Hương Dũng ở làng tôi. Một hôm đang gác ở cổng Cầu Ve thì có một anh khoảng trên 30 tuổi, ăn mặc luộm thuộm, người gầy gò hốc hác đi từ Đại Vy xuống hỏi em:
    - Chú làm ơn cho hỏi thăm, ở làng ta có miếu nào thờ ông Thần to lớn, râu tóc bạc phơ, mặc áo nâu, tay trái bế em bé đẹp như Tây lai, tay phải cầm cành huệ - không, hả chú ?
Phiêu thấy lạ, vả còn ít tuổi (em mới 18 tuổi) nên trả lời:
    - Để tôi dẫn anh vào bác tôi, ông ấy biết rõ hơn tôi.
Rồi dẫn người khách Đại Vy (Phiêu quên hỏi tên họ) vào gặp Cụ Xếp - thân phụ tôi. Cũng câu hỏi lúc trước được lặp lại. Cụ Xếp vui vẻ:
    - Có, để tôi dẫn chú em đến gặp coi đúng không.
Lúc đó có mặt tôi, óc tò mò thúc đẩy, tôi liền đi theo cha tôi xem Ngài dẫn ông khách lạ mặt đi đâu. Cả em Phiêu nhờ người gác thay và cùng đi. Bốn người chúng tôi đi dọc theo con đường giữa làng, đến ngã ba rẽ vào chợ (tôi quên không nói rõ là lúc đó mới vào khoảng 8 giờ sáng, chợ Ve đang họp). Ông khách hỏi cụ Xếp:
    - Thưa cụ, con muốn cúng tạ ơn ông thần ấy, cụ vui lòng cho con biết là nên mua hoa trái bánh quả nhang đèn như thế nào ?
Cụ Xếp cười:
    - Không biết ông thần tôi dẫn chú em đến có đúng như chú em muốn tìm không, vội gì mà mua đồ cúng. Thôi thì tạt qua chợ xem còn hoa huệ, chú em mua mấy bông cúng là đủ.
Cũng may là còn sớm nên hoa cũng còn (chợ làng tôi hồi đó cũng có bán hoa nhưng chỉ lèo tèo vài bông huệ, bông cúc hoặc bông sen thôi). Thân phụ tôi dẫn ông khách lạ tới nhà thờ. Mới bước qua ngưỡng cửa cuối, đã thấy ông khách nhìn chăm chăm lên bàn thờ chính, tay run run như muốn đánh rơi cả mấy bông huệ. Cụ Xếp chỉ vừa kịp hỏi: “Có phải ông thần này không ?” thì đã thấy ông khách Đại Vy không trả lời - miệng lẩm bẩm những gì nghe không rõ - khụy chân quỳ ngay xuống nền đất nhà thờ. Rồi cứ thế đi quỳ - không, phải nói là nửa quỳ nửa bò mới đúng - tiến lên Cung Thánh, tay vẫn lạy lia lịa. Đến bậc thềm cung Thánh - nơi có hàng lan can gỗ cho giáo dân quỳ rước lễ - khách dừng lại, chúng tôi vẫn theo đi sát sau lưng. Khách lại tiếp tục lạy như tế sao, miệng lẩm bẩm lớn hơn, tôi nghe câu được câu mất: “Lạy Ngài mớ bái. Con lạy tạ ơn Ngài. Con đội ơn Ngài...”. Hai tay khách vẫn nắm chặt mấy bông huệ mà lạy tưởng đến rụng hết cả bông. Một lúc khá lâu, cụ Xếp lên tiếng:
    - Vậy thì đúng ông thần này rồi phải không ? Để tôi cho chú em biết tên ông ấy: Đó là ông Thánh Giuse, quan thầy của làng tôi đó. Sao, chuyện như thế nào mà chú em cứ lạy ông Thánh ghê thế ?
Khách bừng tỉnh:
    - Thưa, để lát nữa xin phép cụ cho con về nhà cụ, con sẽ kể.
Rồi lại tiếp tục lạy. Sau đó, khách có vẻ muốn tìm bình cắm hoa, cụ Xếp bảo cứ để hoa lên lan can, sẽ có cậu giúp lễ ra nhận và cắm vào bình. Xong xuôi, khách mới dám đứng lên và đi... giật lùi tới hết bậc thang cuối nhà thờ mới dám quay lưng. Về nhà tôi, sau một tách trà nóng, khách kể:

Số là thế này: Cách đây hơn tháng, con bị đau bụng tháo dạ nặng lắm. Chiều tối hôm ấy, con hấp hối trên ổ rơm, tự nhiên nghe thấy tiếng rầm rập ngoài ngõ. Lạ một cái là con không những nghe rõ tiếng mà còn nhìn rõ - dù con đang nằm ở trong nhà - một đám quân vận đồ đen cầm giáo mác, có một ông tướng đội mũ cưỡi ngựa ô đi đầu. Tới cổng nhà con, ông tướng chỉ roi về phía con nói với đám quân lính: “Vào bắt thằng này”. Thế là tự nhiên con vùng đứng dậy đi ra cổng, còn nghe rõ tiếng vợ con của con khóc gọi theo: “Ới anh ơi, anh nỡ bỏ em bỏ con mà đi sao anh ơi !”. Tiếng khóc xa dần, con đã theo đám quân lính ra đường giữa làng và đi về phía Dũng Vy. Lạ lắm cụ ạ, thường ngày đi đường làng tới Đình Đại Vy xây chắn ngang đường, con phải đi đường vòng theo tường Đình mới tới đường đi xuống Cầu Ve, hôm ấy tự nhiên đám lính và con đi băng qua Đình mà chẳng thấy vướng víu gì. Đi tới Cầu Ve thì có tiếng quát dừng lại, chúng con dừng lại ở đầu cầu phía Tây. Ngẩng lên trông thấy ông Thánh lúc nãy cụ dẫn con đến gặp đang đứng trên nóc cổng Cầu Ve, con nghe rõ ông Thánh nói: “Trả thằng này về nhà nó. Cút đi !”. Vừa nói ông Thánh vừa cầm cành huệ chỉ vào con. Ông tướng mặt đen chẳng nói chẳng rằng quay đầu ngựa lại theo lối cũ. Đến đầu ngõ nhà con thì mấy tên quân đi cạnh con đẩy con một cái vào ngõ. Con đi đến gần cổng thấy trời đã sắp sáng, vợ con vẫn lăn lộn khóc gọi. Mở mắt ra, quay đầu nhìn lại vẫn thấy mình nằm trên ổ rơm. Bỗng nhiên thấy vợ con ngưng bặt tiếng khóc rồi vùng té chạy, gào to: “Ối chú ơi, anh chú bị quỷ nhập tràng rồi”. Con càng thấy lạ lắm, con có chết đâu mà bị quỷ nhập tràng. Em trai con nghe vợ con gọi, liền cầm con dao phay nhảy đứng dạng háng trên người con giơ cao con dao lên và hét: “Mày phải quỷ nhập tràng không ? Nói ngay, không tao chém”. Con muốn nói cho em nó biết nhưng không nói được vì cổ đã khô cứng. Con ngáp ngáp mồm chớp chớp mắt ra hiệu xin nước. Nó hiểu ra và lấy nước. Uống xong, con nói được và phều phào kể lại đầu đuôi cho cả nhà nghe. Đến lúc đó con mới biết là con đã chết từ chiều hôm trước và nếu nhà không nghèo quá thì đã được bó chiếu chôn ngay tối hôm qua rồi. Chiếu cũng không có chứ đừng nói là quan tài. Cũng may ! Và con biết được ông Thánh Giuse ở làng cụ đã cứu con, con đã hỏi cả xóm con ở nhưng không ai biết. Hôm nay mới quyết định xuống đây và được gặp cụ. Quý hóa quá ! Con cám ơn cụ.

Như đã nói ở trên, chuyện này có thật 100% vì chính tôi được chứng kiến, mặc dù hồi đó tôi còn nhỏ (14 tuổi). Sau này, tôi có được nghe thân phụ tôi kể lại mấy lần. Và một nhân chứng sống động nhất vẫn còn sống, đó là người em cô cậu của tôi: Phan Tự Phiêu hiện đang sinh sống ở Liên Khương - Đà Lạt. Kể lại chuyện này, tôi muốn nói với mọi người rằng sở dĩ tôi có được một đức tin rất mãnh liệt là cũng nhờ vào những chuyện tương tự củng cố, cho nên dù ở bất cứ thời điểm nào tôi luôn luôn khai rõ với chữ in hoa trong lý lịch, nơi mục tôn giáo: Thiên Chúa Giáo, một mục mà tôi đã thấy có nhiều người hay ghi: Không Tôn Giáo. Tôi lại nhớ đến lời Đức Kitô nói với Thomas: “Thomas, bởi vì con đã thấy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Bây giờ thì xin được thay vào tiếng “tôi” đơn lẻ bằng một đại từ xưng hô khác “chúng tôi”, bởi vì tôi và chúng tôi cũng chỉ là một: Đồng hương Dũng Vy. Vâng, chúng tôi - những người đã bước qua ngưỡng cửa “lục thập nhi nhĩ thuận” - xin được đặt ở đây một câu hỏi: Tiền nhân xứ Dũng là như thế đó, các lớp hậu duệ nghĩ sao ?

Hạ Chí 2000
19.06.2000

Giáo phận Bắc Ninh - Một chặng đường



Published on Sep 4, 2012

XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)

Nói về hàng Mục tử thì từ ngày Thôn Ngoài tòng giáo, trên Tòa Giám Mục Bắc Ninh có các Đức Giám Mục: Đức cha Lễ, Đức cha Khâm, Đức cha Phúc, Đức cha Chỉnh (4 Đức cha gốc Y Pha Nho - Espagnã - Tây Ban Nha, lấy tên Việt Nam), Đức Cha Hoàng Văn Đoàn, Đức Cha Khuất Văn Tạo, Đức Cha Phạm Đình Tụng, Đức Cha Nguyễn Quang Tuyến. Về các Linh mục thì có quí Cha: Cha già Khải, Cha già Đoán, Cha già Chấn, Cha Châu, Cha Liêm, Cha Nghĩa, Cha Mẫn, Cha Yên, Cha Tự... Đến quí Thầy thì có: Thầy già Tín, Thầy già Xuân, Thầy già Huệ, Thầy Ước, Thầy già Cửu, Thầy Trạch, Thầy Nhật, Thầy Xướng... Hàng giáo dân tham gia Mục vụ thì tiên khởi có cụ Phó Trương Cả già (Chánh Trương là người ở chính xứ Cẩm Giang, Dũng Vy là họ lẻ nên chỉ có đến Phó Trương là lớn nhất), tiếp theo là các cụ: Phó Trương Nghìn, P.Trương My, P.Trương Tể.

Trước 1949 và sau 1954, Dũng Vy chỉ là họ lẻ thuộc giáo xứ Cẩm Giang. Chỉ đến 1949, khi Cha Chính xứ Cẩm Giang là Ngô Văn Yên thì tòa Giám có cử Cha Phạm Quang Tự (sinh quán Cẩm Giang) về làm Chính xứ Dũng Vy. Từ 1952 đến 1954 thì Cha Tự về tòa Giám Mục Bắc Ninh, Cha Yên lại về thay Cha Tự làm Chính xứ Dũng Vy. Tuy phần lớn thời gian, Dũng Vy chỉ là họ lẻ, nhưng công việc duy trì và phát triển Đức tin Kitô Giáo vẫn rất tốt đẹp. Cứ thử tưởng tượng trước l949, hàng tuần giáo dân Dũng Vy vẫn lũ lượt kéo nhau đi dâng lễ rất đông tại Cẩm Giang (cách Dũng Vy khoảng 4 - 5 km), đến sau 1954 còn phải đi xa hơn nữa, lên tận Bắc Ninh mới có Thánh lễ (cách làng khoảng 15km). Sau biến cố 1954 có đến gần phân nửa giáo dân Dũng Vy di cư vào Miền Nam Việt Nam, vậy mà nhà Chung vẫn được trông coi tươm tất, nhà Thờ sớm tối vẫn vang lên lời kinh tiếng hát - đèn nến phụng thờ Thiên Chúa vẫn luôn được thắp sáng và hàng năm vẫn tổ chức lễ kính Thánh Cả Giuse Quan Thầy Giáo Họ một cách hết sức long trọng, có Cha Quản Hạt về dâng Thánh lễ, thậm chí có năm do chínnh Đức Cha Tuyến về Chủ tế. Và mỗi năm làng như mở hội lớn vào ngày lễ kính Thánh bổn mạng (Thánh Giuse Thợ 01/05). Sau ngày đất nước thống nhất, kẻ viết bài này đã hết sức sửng sốt và thật sự vui mừng khi được biết 21 năm qua, quê nhà vẫn giữ được nếp Sống Đạo như xưa - thậm chí còn hơn cả xưa nữa.

Lại nhớ đến hai câu thơ trong bài thơ của tôi viết cho quê nhà:
 
Làng tôi đó - bao thăng trầm lịch sử
Bao sao dời vật đổi vẫn ung dung

Nối theo hai câu thơ là hình ảnh lớp học tiếng Pháp với Cha Tự, rồi những buổi học hát, những buổi hát lễ Mồ, thấy chúng tôi mệt, Cha thường khôi hài mời chúng tôi ăn sung và khế cùng lúc và thay vì chấm muối như bình thường thì Cha tự tay rót tương cho chúng tôi chấm - có lẽ để bớt vị chua của cây khế nhà Chung vốn dĩ rất chua và bớt đi vị chát của sung xanh - cũng thấy hay hay, nhưng kỷ niệm thì không sao quên được. Đặc biệt vào dịp lễ Giáng Sinh, trời rét ngọt, chúng tôi co ro trong những chiếc áo len đan bằng tay, miệng run lập cập - hai hàm răng đánh đàn - vẫn cố hát theo cái náo nức trong tim trên con đường dẫn đến Thánh Đường: “Đi mau! Vào chầu! Đi đi mau! Vào lậy chầu! Vào hang cung chúc Chúa ta ra đời, để tạ ơn Người đoái thương ta...”.
 
Nói đến nhà Thờ, dòng liên tưởng của tôi lại chuyển qua sự kiện mới xẩy ra cách đây một năm: Công việc trùng tu Thánh Đường Dũng Vy sau 60 năm xây dựng. Tôi cũng vinh dự được góp chút tâm huyết vào Ban Cố Vấn vì thấy được rằng những người con xứ Dũng dù ở bất cứ nơi đâu - trong bất cứ hoàn cảnh nào - dù chính kiến có thể bất đồng - nhưng luôn vẫn một lòng nhớ về nơi quê cha đất tổ, luôn vẫn thể hiện tình đồng hương gắn bó trong tình yêu Đức Kitô và duy trì đức tin, sống đạo một cách vững vàng. Xin đọc thêm bài “Lời cảm nhận” của Tương Giang ĐQT vì trong bài viết này tôi chỉ sơ lược vài dòng về vấn đề này để còn dành chỗ cho các sự kiện khác. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là kể từ Cụ Tổ của làng đến cắm đất ở Đồng Vĩnh (thuộc Vĩnh Phú gần núi Cổ Miễu) rồi dần dần chuyển cư xuống địa giới hiện nay, trải nhiều thế hệ làng tôi vẫn luôn duy trì và phát triển được đức tính kiên nhẫn để tồn tại và tự hào.

  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 1)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 2)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 3)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 4)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 5)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 6)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 7)
  • XỨ DŨNG QUÊ TÔI (Đoạn 8)