Tuesday, July 23, 2019

Thôn Lương, Tri Phương, Tiên Du, Bắc Ninh. - June 19, 2019


Đình thôn Lương cần sớm được tu bổ, tôn tạo

Đình thôn Lương cần sớm được tu bổ, tôn tạo

22/07/2019 08:15
 
Trải bao biến thiên của lịch sử, đình thôn Lương, xã Tri Phương (Tiên Du) vẫn sừng sững uy nghi, trầm mặc trên nền đất cũ. Đình được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1990. Hơn 300 năm nay, đình là nơi gắn kết sinh hoạt cộng đồng, nhân dân trong thôn vẫn hàng ngày bảo vệ, gìn giữ song đến nay đã xuống cấp cần sớm được trùng tu, tôn tạo.
 

Cột bên ngoài cửa vào đình bị nghiêng.

Thôn Lương hiện có hơn 3.000 nhân khẩu, hơn 1.000 hộ, nhân dân chủ yếu làm nông nghiệp. Cũng như bao làng, xã khác, đình thôn Lương là nơi thờ các vị tiên thánh, nhân thần có công với đất nước là nơi hội họp, bàn bạc, quyết định mọi việc chung của dân làng. Đình được xây dựng năm Canh Thìn 1700 đời vua Lê Hy Tông. Theo lời kể của các cụ, 4 giáp trong làng cùng chung lưng đấu cật góp công sức tiền của để xây dựng công trình văn hóa bằng tài nghệ của mình.
 
Đình thờ bà Nguyên Phi Ỷ Lan vợ vua Lý Thánh Tông sinh ra vua Lý Nhân Tông. Bà có nhiều công lớn cùng với chồng con giữ gìn đất nước, củng cố, xây dựng vương triều Lý vào những giai đoạn rực rỡ nhất của thế kỉ XI. Đình còn thờ 3 anh em họ Cao: Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, có nhiều công lao giúp vua đánh giặc, bảo vệ đất nước, được các triều vua phong lên bậc “Trung đẳng thần” hộ quốc an dân, còn ghi rõ trong sắc phong lưu lại ở đình Lương. Tại đây dân làng vẫn quanh năm đèn nhang, hương khói, “xuân thu nhị kỳ” có hai tiết lệ chính trong một năm đó là ngày 1 tháng 2 âm lịch và ngày 15 tháng 8 âm lịch, là ngày kỷ niệm và tưởng nhớ tới ngày sinh và ngày hóa của các nhân hiền được thờ ở đình làng. Những ngày này dân làng quy tụ đông nhất thể hiện lòng tôn kính đối với các vị tiên hiền.

Xưa kia việc tế lễ và rước sách được tổ chức một cách long trọng, nghiêm trang và vui nhộn với các ban nhạc, cờ quạt, tàn lọng, bát biểu, kiệu rước… cùng màu cờ sắc áo âm thanh của nhạc khí, sự tham gia của già, trẻ, trai, gái. Đám rước trở thành lực lượng biểu dương lòng ngưỡng mộ của cả làng đối với đức thánh cuốn hút rất nhiều người xem. Ngày nay, dù không tổ chức tế lễ, rước sách cầu kì, tốn kém như xưa, song việc thờ cúng, hành lễ vẫn được dân làng tổ chức rất trang nghiêm thành kính, nhất là lễ hội ngày 1 tháng 2 âm lịch.

Đình thôn Lương còn tồn tại tới ngày nay là do công sức giữ gìn, bảo vệ của nhân dân. Đình là công trình có giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật độc đáo, phong phú, điêu luyện của phong cách chạm khắc gỗ dân gian ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 17 còn lại ở Tiên Du. Những hình chạm khắc ở đây mang đề tài chủ yếu là rồng, hoa lá, mây lửa vẫn còn giữ nghiêm chỉnh trong cách bố cục, hình khối, đường nét. Ngoài những hình chạm khắc đứng trong vị trí kiến trúc, bổ trợ cho giá trị nội dung lịch sử cũng như nghệ thuật kiến trúc, đình còn giữ được nhiều cổ vật quý, tài liệu hiện vật vô cùng phong phú và đa dạng có giá trị nghiên cứu, giáo dục sâu sắc. Các hiện vật là đồ thờ: Loại chất liệu bằng gỗ, loại bằng đồng, bằng sành, sứ, gốm. Đồ thờ bằng gỗ ở đây đều được sơn son thếp vàng rực rỡ như: Án thờ, sập thờ, bát biểu, đèn gỗ, hạc gỗ, phỗng gỗ, mâm bồng gỗ, lọ cắm hoa, bình hương… Các đồ thờ được chạm khắc đẹp và tài nghệ, có giá trị. Hương án và sập còn giữ nguyên được kiểu dáng ban đầu rất cổ xưa với những thân rồng uốn lượn đứng trên thân rùa (biểu tượng cho sự vững bền). Đáng chú ý là cây đèn bằng gỗ chạm khắc cầu kỳ tài nghệ. Chân đèn là một con vật đầu rồng, mình cá, đuôi tôm, nằm cuộn tròn ôm lấy cây trúc cao 1,5m. Đặc biệt bên dưới hương án, trên sập thờ còn một đôi phỗng gỗ, mình cởi trần trông lực lưỡng khỏe mạnh trong tư thế quỳ nghiêm trang, 2 tay khoanh về phía trước thành kính dâng hương, mặt ngoảnh vào trung tâm bàn thờ. Đình còn giữ được 5 đạo sắc phong thời Nguyễn.

Ông Nguyễn Văn Tuẩn, Trưởng Ban khánh tiết thôn Lương cho biết: Năm 2009 do các cột đình bị rỗng đã được bơm keo tu bổ nên vẫn giữ nguyên được kiểu dáng ban đầu, tuy nhiên hiện nay một số dui mè, cột, hoành đang bị hư nát, đứng bên ngoài quan sát, mái đình đang nghiêng về hướng Đông khoảng 20 độ. Địa phương có kế hoạch cùng với kinh phí của tỉnh và sự đóng góp của nhân dân sẽ tu bổ, tôn tạo để bảo vệ tốt hơn cho ngôi đình.
 
Minh Hường
 

Monday, July 22, 2019

Những tên gọi của làng Dũng Vi

Xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh hiện nay (07-2019) có 4 thôn là Lương, Giáo, Đinh và Cao Đình. Trước năm 1954 gọi là làng Dũng Vi.

Vài năm trước đây. Có một người làng Dũng Vi (thôn Lương) hỏi tôi: "Anh có phải người ở VE không ?". Tôi hiểu đại ý là anh ấy muốn hỏi tôi có phải là người làng Dũng Vi không ?...

Ngày nay, chúng ta ít tìm thấy trên những trang mạng hoặc sách báo, tài liệu viết về địa danh VE. VE chính là tên gọi của làng DŨNG VI từ nhiều thế kỷ trước...

Chợ VE chụp năm 2006 - Photo Đinh Quang Thành

Những tên gọi như: làng VE, xóm VE, cầu VE, chợ VE hay đơn giản chỉ gọi là VE cũng đã được các tác giả đồng hương Dũng Vi như ông Đinh Văn Đích (bút hiệu Đinh Bằng, Giáo sư, Cử nhân Sử-Địa), ông Đinh Văn Diệm (bút hiệu Lam Thy, Giáo sư, Cử nhân Hán-Việt) vv... kể đến trong những bài viết đã đăng trên Blog KYDV (Xem bài LÀNG TÔI - Tác giả Đinh Văn Đích tháng 5/2000 đăng trên tập KYDV Số 1, trang 34 và trên Blog KYDV ngày 02/02/2013).

Những tên gọi này không biết đã có từ bao giờ, có lẽ đã khá cổ vì được nhắc lại vào khoảng thời điểm của Tổng Dũng Vi dưới những triều đại phong kiến Thế kỷ 17 hoặc xa xưa hơn nữa ...

Nhân dịp đọc qua luận văn "Nghiên cứu Thần Tích hai huyện Từ Sơn và Tiên Du tỉnh Bắc Ninh" - Tác giả Đào Thị Huệ (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm - 2016. Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Hà Nội, dài 57 trang). Luận văn được đánh giá qua kết quả thu được là có những đóng góp hữu ích cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa hai huyện Từ Sơn và Tiên Du nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.

Trong luận văn ghi chép chi tiết rõ về tên gọi các thôn làng Dũng Vi đã được sử dụng trong quá khứ và hiện tại. Cạnh những tên gọi hiện nay, luận văn còn cho biết thêm về tên Nôm, tên cũ của các thôn làng...

Dưới đây là những tên gọi của các thôn làng ghi trong luận văn (trang 39/57):

Làng Đinh (tên Nôm là Ve Đinh)     
1 thôn xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi

Làng Cao Đình (tên Nôm là Đường)   
1 xã thuộc Tổng Thụ Phúc

Làng Dũng Vi Giáo (tên Nôm là Ve Chợ) 
1 thôn xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi

Làng Lương (Ve Lương)
1 thôn xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi

Tất cả tên Nôm các thôn làng thuộc xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi đều được gọi bắt đầu bằng VE (Ve Đinh, Ve Chợ, Ve Lương), ngoại trừ thôn làng Cao Đình (tên Nôm là Đường) thuộc tổng Thụ Phúc.


GOOGLE MAPS 07.2019 - Photo KYDV

Trên một số trang mạng và bản đồ hiện nay (07-2019), ngoài 4 tên thôn kể trên (Lương, Giáo, Đinh và Cao Đình) còn có thêm tên thôn Cao Đường cũng thuộc xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Người xem có thể nhầm lẫn thôn Cao Đình và thôn Cao Đường là 2 thôn với tên gọi riêng biệt nằm kề nhau (xem ảnh trên). Luận văn nghiên cứu này cũng cho biết rằng tên thôn Cao Đường chính là tên Nôm hay tên cũ của thôn Cao Đình hiện nay vậy...

Mong đón nhận những ý kiến của quý đồng hương và bạn đọc.

Thung Lũng Hoa Vàng, Hoa Kỳ
Tháng 07-2019
Đinh Tất Thức

(Còn tiếp)
----------

Bài viết liên quan:
- Tên Làng: Dũng Vi hay Dũng Vy ?
- Quê hương qua Ca dao: Ba cô đội gạo lên chùa - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Thằng Cuội - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 8 Con Chuột - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bánh Bèo - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bán Rượu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Yêu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Lo - Đinh Thức
- Đình Dũng Vi - Blog KYDV
- Những tên gọi của làng Dũng Vi
- Những tên gọi của làng Dũng Vi (Tiếp theo)
- Thần Sắc và Thần Tích xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
- Thần Sắc và những vị Thành Hoàng làng Dũng Vi
- Văn Chỉ làng Dũng Vi
- Quê hương qua Ca dao: Cái Bống - Nhạc: Đinh Thức