Saturday, September 8, 2018

Gia phả họ ĐINH-VĂN - Ông Nguyễn Tuyển Vinh và ông Nguyễn Văn Huỳnh

Gia phả họ ĐINH-VĂN - Ông Nguyễn Tuyển Vinh và ông Nguyễn Văn Huỳnh

Dưới đây là trích đăng những bản Gia Phả các dòng họ trong Làng Dũng Vi do ông Nguyễn Tuyển Vinh biên soạn và gởi đăng trên Blog KYDV tháng 8/2018.

Blog KYDV sẽ lần lượt trích đăng từng bản Gia Phả của mỗi họ ĐINH VĂN, NGUYỄN KHẮC, NGUYỄN TUYỂN, NGUYỄN VĂN dưới dạng PDF (Portable Document Format). Như vậy sẽ dễ dàng và tiết kiệm thời gian cho bạn đọc thay vì sử dụng chương trình gốc (Editable Program).

Quý vị cũng có thể xem tại KYDV (Microsoft OneDrive) - Ông Nguyễn Tuyển Vinh - Gia Pha (Unzip).

Mọi ý kiến đóng góp xin gởi về:

-  Ông Nguyễn Tuyển Vinh (VN)
 Email: nguyentuyenvinh519@gmail.com
 Mobile: 0011 84 93 3444608

-  Ông Nguyễn Văn Huỳnh (Úc châu)
 Email: nguyen.huynh.dungvi@gmail.com
 Mobile: 0011 614 04 071 331 or 0011 614 66 914 551

----------

From: Huynh Nguyen nguyen.huynh.dungvi@gmail.com
To: Thuc Dinh dthuc@live.com
Date: Sat. 09.08, 2018, 3:30PM

Cám ơn chú Thức đã đưa gia phả họ Đinh Văn (Nguyễn Tuyển Vinh soạn) lên KYDV, trong đó còn nhiều thiếu xót về tên trong khi đánh máy, anh Huỳnh sẽ chỉnh và đưa cho Tuyển Vinh sửa.

Xin quí đồng hương coi và cho biết những chỗ cần sửa, nhất là về họ và tuổi tác hoặc những chỗ còn thiếu xót. 

Cám ơn chú và chúc bình anh.
 
----------
 
GIA PHẢ DÒNG HỌ ĐINH-VĂN (PDF/173 trang)



Xim bấm vào ô phóng lớn (dấu 4 mũi tên) cuối trang bên phải để xem toàn bài.

Đình làng trong đời sống đương đại - Bài, ảnh: Việt Thanh

Đình làng trong đời sống đương đại

08/06/2018 09:30
 
Nếu như chùa làng là nơi để người ta đến tụng kinh niệm phật cho tâm thanh tịnh, bình an và giác ngộ thì đình làng là nơi để người dân đến vui chơi, hội họp, ăn uống, giải trí. Đó chính là đặc tính cộng đồng, dân dã của đình làng.


Đình Đồng Kỵ.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, mái đình vẫn gắn bó vẹn nguyên, bất di bất dịch, tồn tại đồng hành trong đời sống người dân qua các thế hệ. Đình làng không chỉ là nơi thờ Thành hoàng của làng, nơi tế tự và hội họp mà còn là nơi mở hội làng. Mọi tinh hoa vật chất và tinh thần của cộng đồng làng xã luôn tập trung, thể hiện, phản ánh ở ngôi đình làng.

“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu”.

Dưới mái đình làng, người ta còn trao gửi yêu thương, chia sẻ, bộc lộ tình cảm, hò hẹn và tình tự… Đình làng được coi là biểu tượng “hồn cốt” của làng xã, quê hương. Đó là niềm tự hào của cộng đồng dân cư trong làng và là hình ảnh luôn lắng sâu trong tâm thức của những người xa quê khi nhớ về cội nguồn.

Bắc Ninh-Kinh Bắc nổi tiếng với những ngôi đình bề thế, các lớp ngói đao cong uốn lượn duyên dáng, được chạm trổ phong phú các kiến trúc rồng bay, phượng múa, lân chầu, quy đội thư… tinh xảo. Nhiều ngôi đình đẹp nổi tiếng được ca ngợi trong tiềm thức dân gian
 
“Thứ Nhất là đình Đông Khang
Thứ Nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm”…

Theo số liệu thống kê của cơ quan chuyên môn tính đến năm 2013, toàn tỉnh có tổng số 1558 di tích, trong đó có tới 513 ngôi đình làng.

Qua các tài liệu thư tịch cổ kết hợp quá trình khảo sát điền dã thực tế tại hầu hết làng xã ở Bắc Ninh, các nhà nghiên cứu cho rằng, ngôi đình được khởi dựng sớm nhất ở Bắc Ninh hiện nay là đình Mão Điền Đoài, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành. Đình Mão Điền được khởi dựng trước năm 1584 (thời Mạc) và đến năm 1584 thì được trùng tu tôn tạo. Một trong những ngôi đình ở Bắc Ninh còn bảo lưu được dấu ấn điêu khắc thời Mạc là đình Đáp Cầu (thành phố Bắc Ninh). Thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17-18), Bắc Ninh phát triển làng nghề, làng buôn bán giàu có nổi tiếng nên có điều kiện xây dựng, trùng tu và mở rộng đình làng với quy mô lớn, chạm khắc trang trí lộng lẫy, tinh xảo… Sang thời Nguyễn, nhiều ngôi đình tiếp tục được trùng tu mở rộng đến ngày nay, tiêu biểu như: Đình Đình Bảng, đình Phù Lưu, đình Hồi Quan, đình Đồng Kỵ (Từ Sơn); đình Thọ Đức, đình Quan Đình (Yên Phong); đình Diềm, đình Cổ Mễ, đình Đáp Cầu, đình Châm Khê, đình Xuân Ổ (thành phố Bắc Ninh); đình Bùi Xá (Thuận Thành); đình Bảo Tháp, đình Yên Việt, đình An Quang, đình Môn Quảng (Gia Bình)...

Mỗi đình làng ở Bắc Ninh là một thiết chế văn hoá truyền thống, nơi lưu giữ tinh hoa của các thế hệ người dân ở từng thời kỳ lịch sử. Nghệ thuật kiến trúc, các bức chạm khắc, trang trí trên những cấu kiện gỗ ở đình làng với đa dạng đề tài tứ linh, tứ quý và cuộc sống con người… đều là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đặc sắc mà các nghệ nhân xưa đã dày công tạo tác, gửi gắm những thông điệp của lịch sử đương thời. Đình làng Bắc Ninh còn lưu giữ hệ thống di sản văn hoá vật thể và phi vật thể phong phú như thần tích, thần phả, sắc phong, bia đá, đồ thờ tự, hoành phi, câu đối, đồ tế khí, hương ước, khoán ước…


Cửa võng đình Diềm (Hoà Long, thành phố Bắc Ninh).

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tỏ lòng biết ơn công lao của các vị Thành hoàng, hàng năm nhân dân các làng xã tổ chức lễ hội tại đình với nhiều nghi thức tín ngưỡng được tổ chức long trọng, trang nghiêm gồm cả phần lễ và phần hội. Bởi vậy, tại không gian đình làng diễn ra cả hoạt động tế Thần, rước Thần cùng với các hoạt động văn hoá nghệ thuật, trò chơi dân gian.

Trong giai đoạn hội nhập quốc tế với sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng Nông thôn mới hiện nay, đình làng tuy bớt đi một phần chức năng hành chính nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng, là thiết chế văn hoá trung tâm thờ Thành hoàng làng, nơi diễn ra các hoạt động tín ngưỡng, văn hoá tâm linh, gìn giữ thuần phong mỹ tục và giáo dục truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc. Hoạt động trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp đình làng được chú trọng với sự đầu tư đáng kể của Nhà nước cùng nguồn vốn xã hội hoá. Công tác kiểm kê di tích, di sản được tiến hành thường xuyên. Nhiều việc làm thiết thực nhằm truyền tải ý nghĩa, vai trò và bảo tồn các giá trị văn hoá của đình làng trong cuộc sống đương đại vẫn được các thế hệ dân nối tiếp duy trì… để bảo vệ, giữ gìn “mái nhà chung” của cộng đồng làng xã, quê hương.
 
Bài, ảnh: Việt Thanh
 

Chợ Tri Phương (chợ Ve) - Thôn Lương


Wednesday, September 5, 2018

Về Miền Quan Họ Làng Diềm - LÝ CÂY ĐA

- LÝ CÂY ĐA -
 
Chèo lên quán dốc cây đa,
Thấy cô mặc áo vô già nâu non.
Khăn thâm vành rí đội đầu,
Nửa thương bên nọ, nửa sầu bên kia.
Áo lương năm cúc viền tà,
Ai may người mặc hay là em may.
Trẻ tre đan nón ba tầm,
Ai đan người đội hôm rằm tháng giêng.

Hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình luôn gợi lại những kỉ niệm đẹp trong lòng người Kinh Bắc nói chung và trong lòng người Quan họ nói riêng.

Trèo lên quán dốc cây đa,
Thấy cô mặc áo vô già nâu non.

Dưới gốc cây đa nơi đầu làng, Quan họ làng ra đón Quan họ bạn sang chơi hội làng mình, mỗi khi làng mở hội đã trở nên hết sức thân thuộc trong lòng người Quan họ. Chính nơi đây họ đã trao và nhận những miếng trầu nghĩa, trầu tình thay cho lời chào và cũng là thay cho những lời nói trao duyên, trao tình của người Quan họ.

Trầu xanh cau trắng chay hồng,
Vôi pha với nghĩa thuốc nồng với duyên.
Có cau, có vỏ, có vôi,
Xin mời đương Quan họ người xơi miếng trầu.

Sau khi đã trao nhau miếng trầu nghĩa, trầu tình ấy, họ cùng nhau ca lên những câu hát chúc, hát mừng. Rồi họ mời nhau vào nhà những ông trùm, bà trùm. Rồi họ mời nhau ra đình, hoặc ra đền (nơi mà làng mở hội mừng ngày kỵ nhật hoặc ngày húy của thánh hôm đó), làm lễ, rồi họ cùng nhau trao duyên, trao tình trong những canh hát ca sự tại đình, hoặc đền. Rồi họ cùng nhau trẩy hội, du xuân (hát trong đám hội, hát dưới thuyền vv...).

 Cuối cùng thì mời nhau về nhà ông trùm, bà trùm xơi cơm Quan họ và ca những canh Quan họ tại gia thâu đêm suốt sáng.

Khăn thâm vành rí đội đầu,
Nửa thương bên nọ, nửa sầu bên kia.

Chắc hẳn các bạn trẻ ngày nay ít ai được nhìn thấy cái rí của các cụ ngày xưa mổi khi vấn tóc phải không ? Ngày xưa các cụ ta mỗi khi vấn tóc thường hay có cái rí, để khi vấn tóc thì tóc sẽ được các cụ quấn vào cái rí đó cho tóc gọn không bị tả tơi. Tóc dài đến đâu thì cái rí sẽ được làm dài đến đó, sau khi đã quấn tóc vòng quanh rí rồi tì các cụ sẽ quấn cái rí thành một vòng tròn trên đầu, rồi sau đó sẽ chít khăn mỏ quạ bên ngoài vành rí. Nói cách khác thì rí được làm bằng vải, chiều dai thì theo tóc của mỗi người và có tác dụng là dữ cho tóc luôn gọn, rồi quấn thành vòng trên đầu để chít khăn mỏ quạ cho vuông vắn. rí thường được làm to hơn ngón tay cái một chút rồi dài và nhỏ dần đến ngọn tóc. Ngày nay không dùng rí thì mỗi khi chít khăn mỏ quạ các liền Chị thường dùng một cái vòng tròn màu đỏ cho tiện thay cho vành rí.

Áo lương năm cúc viền tà,
Ai may người mặc hay là em may.
Trẻ tre đan nón ba tầm,
Ai đan người đội hôm rằm tháng giêng.

Người Quan họ thật sâu sắc và ý nhị, kín đáo. Thực ra hai câu thơ trên ý muốn khen cái sự khéo léo của các liền Anh, liền Chị. Ngoài văn hay chữ giỏi thì họ cũng là những người hết sức đảm đang, tài hoa trong công việc đời thường điển hình ở đây là họ có thể làm được những trang phục như áo lương, cũng như những vật dụng như nón ba tầm. nhưng ngoài sự khen ngợi khéo léo tài hoa của nhau ra thì người Quan họ còn như ngầm khen nhau rằng nhưng trang phục, những vật dụng mà họ đang dùng đó rất hợp và đẹp khiến ai cũng xinh đẹp, duyên dáng, tao nhã nổi bật giữa đám hội. Trong câu Quan họ lời cổ ''LÝ CÂY ĐA'' cũng cho chúng ta hiểu thêm rằng nghề chơi Quan họ thực sự đã được chắt lọc rất kĩ không phải ai cũng có đủ yếu tố để là một liền Anh, liền Chị thự thụ. Hình tượng được cho là chuẩn, là đẹp thì những liền Chị phải là những người xinh đẹp duyên dáng, đảm đang và nhất là tài ăn nói khéo léo để có thể đối đáp trôi chẩy. Những liền Anh phải là nhưng người tướng mạo nho nhã, tài ba và học hành văn chương chữ nghĩa phải lầu thông vv...

Còn giời, còn nước, còn non,
Còn chơi Quan họ em còn say xưa.

Nào xin mời các đương Quan họ hãy cùng AD xem cái sự tài hoa, khéo léo, sự nho nhã, văn chương kinh sử lầu lầu của các liền Anh. Và nết xinh đẹp, nết na, yểu điệu thục nữ dịu dàng ra sao của các liền Chị Qua câu Quan họ thế nào nhé.

AD Minh Tú

Source Về Miền Quan Họ Làng Diềm
 

Những cô gái trên quê hương Giáo Xứ Dũng Vi.