Friday, December 8, 2017

Sắc phong - giá trị và hướng bảo tồn

Thứ sáu, 10/11/2017 - 08:36
 
Sắc phong - giá trị và hướng bảo tồn
 
Bằng những nỗ lực của cơ quan chuyên môn và các địa phương, Bắc Ninh hiện còn bảo lưu được số lượng sắc phong tương đối lớn. Những giá trị của sắc phong góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu lịch sử, văn hoá của quê hương, đất nước.
 
Sắc phong là một loại văn bản đặc biệt do vua trực tiếp ban cho các làng xã, gia đình, cá nhân. Một cá nhân hoặc tập thể khi được vua ban sắc thì không chỉ là vinh dự mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa. Ngoài việc được nhà nước, chính quyền công nhận tôn vinh còn  được cả cộng đồng trân trọng. Ngày nay, sắc phong vẫn được các địa phương, dòng họ, gia đình trân trọng bởi nó chứa đựng nhiều giá trị, ý nghĩa về lịch sử, văn hoá, mỹ thuật… Trong các đình làng, cuốn thần phả và sắc phong được coi là những vật báu của cả cộng đồng dân cư nên những tài liệu này thường được gọi là “ngọc phả”, “thần sắc”.
Kết quả khảo sát sơ bộ, trên địa bàn tỉnh hiện còn lưu giữ được khoảng hơn 2.189 đạo sắc phong. Trong đó, thành phố Bắc Ninh có 318 đạo, thị xã Từ Sơn có 292 đạo, Tiên Du có 95 đạo, Gia Bình có 233 đạo, Lương Tài là 290 đạo, Quế Võ có 127 đạo, Yên Phong có 454 và Thuận Thành đang lưu giữ 380 đạo sắc phong. Trên thực tế, trong nhiều làng xã, gia đình, nhà thờ họ vẫn còn đang cất giữ sắc phong nhưng chưa được điều tra nên số lượng có thể còn cao hơn. Về giá trị của sắc phong, theo giới chuyên môn đánh giá là thể hiện rõ rệt dấu ấn uy quyền của các vị vua, có tính độc bản vì đạo sắc nào cũng chỉ có một bản. Hơn nữa, niên đại ghi ở cuối văn bản gồm triều vua và ngày tháng ban sắc là thông tin tuyệt đối chính xác làm căn cứ để người đời sau có thể hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể của từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, sắc phong được viết trên chất liệu giấy quý vừa đẹp vừa có độ bền cao. Loại giấy này được làm tại làng Nghè (tức làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội) rất quý vì nguyên liệu dùng để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc, kim nhũ và được sản xuất bằng kỹ thuật seo giấy cổ truyền đặc biệt công phu, chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng.
 
 
Các nhà nghiên cứu thảo luận sôi nổi về giá trị và hướng bảo tồn sắc phong trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.  

Sắc phong ở Bắc Ninh có hai dạng chính: Loại thứ nhất dùng để phong cấp, ban chức tước cho công thần, quan chức. Đối với các gia đình, dòng họ thì sắc phong được xem là gia bảo do trưởng tộc hoặc những người có uy tín cất giữ bảo quản. Loại sắc phong này không có nhiều ở Bắc Ninh. Loại thứ hai là sắc phong thần cho các vị Thành hoàng làng (có thể là nhiên thần hoặc nhân thần) là tài sản chung của cả cộng đồng làng xã nên thường được cất giữ tại các đình, đền, miếu, phủ… Loại sắc phong này còn được bảo lưu khá nhiều ở các làng, xã trong tỉnh. Các nhà nghiên cứu xác định, đạo sắc gốc có niên đại sớm nhất và muộn nhất tỉnh Bắc Ninh đều ở thị xã Từ Sơn. Đó là, đạo sắc có niên hiệu Đức Long (1634) ở đình làng Hồi Quan, xã Tương Giang là sắc sớm nhất, còn sắc phong có niên đại muộn nhất phong thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại 8 (1932) ở đền Đầm khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải phân tích: Sắc phong bao giờ cũng chỉ được viết trên một mặt của tờ sắc với nội dung chỉ có khoảng hơn 100 chữ ghi về địa chỉ nơi được ban sắc phong, lý do được ban sắc, hệ thống mỹ tự ban cho Thành hoàng, đẳng cấp của Thành hoàng, niên hiệu và đóng quốc ấn. Hình thức sao chép phổ biến nhất là ghi chép trên giấy dó, giấy bản hoặc chạm khắc vào bia đá, bảng gỗ, kim loại… Việc cất giữ, bảo quản, phát huy loại tài liệu linh thiêng này mỗi nơi có những quy định riêng.
Thời gian qua, việc nghiên cứu sắc phong ở Bắc Ninh đã được các cơ quan quản lý nhà nước, giới chuyên môn và các địa phương quan tâm. Năm 2012, Bảo tàng tỉnh xuất bản cuốn “Thần tích, thần sắc các vị thần, Thành hoàng làng tỉnh Bắc Ninh”. Hàng năm, Ban Quản lý di tích tỉnh đều có chương trình thống kê tài liệu lịch sử, trong đó có nội dung chụp ảnh, phiên âm, dịch nghĩa in ấn lưu trữ tại cơ quan và phục vụ cho các địa phương cần khai thác sử dụng. Công tác tuyên truyền quảng bá các di sản sắc phong cũng được thực hiện thông qua việc trưng bày chuyên đề của Bảo tàng tỉnh và trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác bảo tồn và phát huy giá trị sắc phong vẫn còn nhiều bất cập. Tại hội thảo khoa học mới đây về “Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản sắc phong trên địa bàn tỉnh”, các nhà khoa học đã thảo luận, đưa ra nhiều giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy giá trị sắc phong trong giai đoạn hiện nay. Một giải pháp quan trọng là đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, quảng bá để người dân hiểu được nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị của di sản sắc phong, đồng thời, tiếp tục thực hiện các đề tài khoa học nghiên cứu tổng thể di sản sắc phong trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung đánh giá nghiên cứu số lượng sắc phong hiện có. Đặc biệt, cần có một dự án đầu tư kinh phí để bảo quản, kéo dài tuổi thọ cho hệ thống sắc phong trong tỉnh. Bởi, tuy được làm bằng giấy dó có độ bền cao nhưng do thời gian, khí hậu, bảo quản không đúng cách nên những tài liệu này không tránh khỏi bị hư hỏng, tỷ lệ sắc phong bị rách nát chiếm 40% so với tổng số hiện có ở Bắc Ninh. Đáng chú ý là phương án số hoá tư liệu sắc phong với tư cách là một nguồn di sản tư liệu ký ức độc đáo. Và nếu thực hiện thành công việc số hoá sắc phong sẽ góp phần quan trọng trong công tác quản lý hệ thống di sản văn hoá, đồng thời có thể giới thiệu, quảng bá rộng rãi hình ảnh, giá trị của di sản tư liệu đặc biệt này đến công chúng trong bối cảnh đương đại.   
Bài, ảnh: Thuận Cẩm
 

Tuesday, December 5, 2017

Số hoá di sản - Việt Thanh

Thứ năm, 23/11/2017 - 08:42
 
Số hoá di sản
 
Số hóa di sản là quá trình tích hợp giữa công nghệ và văn hóa. Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin thời gian qua đã tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Các phần mềm tối tân được ứng dụng linh hoạt nhằm kết nối các khu vực, quốc gia trên thế giới đến gần nhau nhất. Nhưng dường như ở lĩnh vực văn hoá, nhất là với các di sản vẫn đang có vẻ khá thờ ơ với công nghệ.
 
Khi công nghệ “bắt tay” với văn hoá
Đứng trước những biến đổi của địa lý, khí hậu, những biến dạng của môi trường sống, ý thức cộng đồng... các nhà quản lý và giới nghiên cứu văn hóa đang tìm tòi những hình thức bảo tồn di sản. Trong thời đại công nghệ thông tin, biện pháp số hóa di sản, di tích giúp các nhà khoa học có cái nhìn tổng quát về di sản để tiến hành các thử nghiệm, can thiệp chính xác trong quá trình phục dựng. Đối tượng có thể áp dụng số hoá khá đa dạng bao gồm cả di sản văn hoá vật thể và phi vật thể. Trong đó, đối tượng ưu tiên là những di sản có nguy cơ mai một cao nhằm mục tiêu nghiên cứu, bảo tồn và phục dựng lại khi điều kiện cho phép. Tiếp đó là những di sản có giá trị lịch sử, văn hoá, du lịch nhằm quảng bá, giới thiệu lan toả sâu rộng trong các cộng đồng.
Theo các chuyên gia, việc số hoá di sản cho phép tận dụng những ưu thế của công nghệ thông tin như: Chi phí thấp; tính trực quan và độ tin cậy cao; tích hợp cả âm thanh, hình ảnh, đặc biệt là hình ảnh ba chiều (3D); dễ dàng cập nhật và nâng cao chất lượng; cho phép tiếp cận không giới hạn về thời gian, địa điểm thông qua Internet; cho phép đa ngôn ngữ… Qua việc số hoá di sản giúp đưa di sản đến với cộng đồng, các nhà nghiên cứu, du khách trong và ngoài nước. Hơn nữa còn kết hợp quảng bá hình ảnh, nét đẹp văn hoá của quê hương, đất nước, con người, đồng thời tạo ra các dịch vụ có giá trị gia tăng để bảo tồn, khai thác và phát triển bền vững các di sản.       

Quê hương thuỷ tổ Quan họ làng Diềm (xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh) được số hoá. (Ảnh khai thác từ internet),    

Tuy nhiên, đối với những người làm công tác sưu tầm và tư liệu hoá, số hoá di sản thì câu hỏi thường gặp là vấn đề bản quyền có được tôn trọng? Đó chính là một rào cản lớn của việc số hoá di sản. Bởi khi được số hóa, các di sản văn hóa sẽ được sử dụng rộng rãi với nhiều mục đích khác nhau. Như vậy, bản quyền trí tuệ thuộc về các nghệ nhân, nhóm cộng đồng liệu có bị vi phạm? Một hạn chế nữa  liên quan đến việc giảm tính chính xác trong quá trình số hóa là khi áp dụng với di sản văn hóa phi vật thể.
Vấn đề lưu giữ, bảo tồn di sản trong thời đại kỹ thuật số được coi là nhiệm vụ quan trọng đối với các cơ quan quản lý văn hóa. Cần có những hội thảo khoa học chuyên đề để đánh giá những cơ hội và thách thức trong quá trình số hóa di sản văn hóa. Và nếu muốn áp dụng số hoá đòi hỏi từng địa phương phải có những nghiên cứu cụ thể để đưa ra định hướng chi tiết đối với từng di sản. Với những người tham gia thực hiện phải được đào tạo chuyên sâu.   
 
Mở hướng mới trong bảo tồn di sản
Bắc Ninh có một hệ thống di sản văn hoá đồ sộ, phong phú với mật độ di tích lịch sử văn hoá đậm đặc gồm khoảng 1558 di tích, trong đó có 515 ngôi đình, 153 ngôi đền, 474 ngôi chùa… Hiện nay, toàn tỉnh có 4 di tích Quốc gia đặc biệt, 195 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 378 di tích cấp tỉnh và 5 nhóm bảo vật Quốc gia. Trong các di tích còn bảo lưu hệ thống tài liệu, di vật, cổ vật, bảo vật vô cùng phong phú, đa dạng chất liệu, chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… Đặc biệt, Bắc Ninh còn sở hữu kho di sản văn hoá phi vật thể giàu giá trị như Dân ca Quan họ Bắc Ninh - Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của Nhân loại; Ca trù, nghệ thuật Múa rối nước, tuồng, chèo, hát trống quân… cùng hàng trăm lễ hội và các làng nghề thủ công truyền thống. Với kho báu di sản đồ sộ như vậy thì nghiên cứu và áp dụng giải pháp số hoá di sản sẽ mở ra hướng mới trong công tác gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Nếu trên thế giới, việc áp dụng công nghệ thông tin vào bảo tồn di sản không phải là điều mới mẻ thì tại Việt Nam cũng như ở Bắc Ninh vẫn chưa được chú ý đúng mức. Thực tế, từ những năm trước việc số hóa di sản đã manh nha ở một số đơn vị. Như cách đây gần chục năm, trong khi kho sắc phong cả nước đang đứng trước nguy cơ mai một, xuống cấp thì Bảo tàng Bắc Ninh đã nghiên cứu và thực hiện thành công việc số hóa công tác lưu trữ sắc phong, đồng thời mở dịch vụ khôi phục, làm lại sắc phong. Đây hẳn là một quyết định khá táo bạo thế nhưng kéo theo đó vô vàn khó khăn mà đơn vị này gặp phải.
Mới đây, tại hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản sắc phong trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” do Ban quản lý di tích tỉnh tổ chức, các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến vấn đề số hoá trong việc quản lý hệ thống di sản văn hoá trước bối cảnh xã hội đương đại. Sau quá trình nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng công tác gìn giữ, bảo quản, bảo vệ an ninh an toàn hệ thống sắc phong trên địa bàn huyện Yên Phong những năm gần đây, ThS. Lưu Ngọc Thành, giảng viên khoa Di sản văn hoá, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đề nghị UBND tỉnh và ngành Văn hoá Bắc Ninh cần cân nhắc để tiến hành công tác số hoá tư liệu sắc phong với tư cách là một nguồn tư liệu di sản ký ức độc đáo…
Có thể thấy, trong khi vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản đang còn nhiều bộn bề và nan giải thì số hoá là một hướng mới cần được các cơ quan quản lý văn hoá lưu tâm. Bởi công nghệ thông tin hứa hẹn là công cụ hữu hiệu trong việc lưu giữ và quảng bá hình ảnh, văn hóa của mỗi vùng miền, quốc gia đến với thế giới.
Bài, ảnh: Việt Thanh
 

Monday, December 4, 2017

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO VIỆT NAM

  Hội thảo khoa học
Nguyễn Hồng Dương (Bản tóm tắt)
              
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Cập nhật lúc 17h22, ngày 19/08/2007

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO VIỆT NAM
PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
Viện Nghiên cứu Tôn giáo
         Đạo Công giáo truyền bá và bước đầu đứng chân ở Việt Nam vào thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ nhà Lê Trung Hưng. Nho giáo được dùng làm hệ tư tưởng trị nước của nhà Lê. Các tôn giáo khác như Phật giáo, Đạo giáo vẫn thịnh hành trong nhân gian và cũng có ảnh hưởng nhất định trong đường lối trị nước của nhà Lê.
         Sự xuất hiện của Công giáo ở Việt Nam ngay từ buổi đầu đã là sự kiện tôn giáo. Đó là việc truyền bá một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với các tôn giáo truyền thống. Một tôn giáo không thừa nhận các tôn giáo khác đang hiện diện, coi tất cả là tà giáo là đạo dối. Điều này được thể hiện bởi cái nhìn của giáo sĩ Aleaxandre de Rhodes, tên Việt gọi là Đắc Lộ (1593- 1660) qua tác phẩm: Phép giảng tám ngày, sau đó là các thư chung của các giám mục gửi bổn đạo và các văn kiện khác của Toà thánh Rôma.
         Để bảo vệ tín lý, bảo vệ đức tin/ niềm tin tôn giáo, những cuộc tranh luận có tính học thuật diễn ra giữa Nho giáo và Công giáo. Nội dung là đề cao tôn giáo mình, hạ thấp, thậm chí phủ nhận tôn giáo đối lập. Đó là nguyên nhân ra đời cuốn “Tây Dương Gia tô bí lục” của nhà Nho công kích giáo lý Công giáo và cuốn “Hội đồng tứ giáo danh sư” của giáo sỹ nhằm hạ thấp và phủ nhận Nho giáo. Đứng trên tư tưởng Nho giáo để phê phán Công giáo còn thể hiện ở các Đạo dụ cấm đạo của nhà Lê, nhà Nguyễn, thể hiện ở lời hịch của phong trào Văn Thân “Bình Tây sát tả”.
         Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, song nguyên nhân chủ chốt là về phía Công giáo, trước Công đồng Vatican II (1962 – 1965) không công nhận các tôn giáo nào khác ngoài nó, phía Nho giáo, mà đại biểu của nó là nhà nước phong kiến, các bậc danh Nho sợ Công giáo huỷ hoại phong hoá, cốt lõi là thờ cúng Tổ tiên, đi ngược lại những giá trị của Nho giáo đang được sử dụng là hệ tư tưởng trị nước.
         Song, cùng với thời gian, về mặt phi quan phương, Công giáo Việt Nam dần chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Công giáo tiếp thu những giá trị tư tưởng, thẩm mỹ kể cả thế giới quan của Nho giáo. Những nội dung trên được thể hiện từ việc Công giáo chuyển ngữ về Thiên Chúa, về tín lý... sang ngôn ngữ Việt để tín đồ người Việt cảm nhận và thấu hiểu; thể hiện qua kiến trúc; qua sống đạo theo lòng đạo đức bình dân mà mãi đến cuối thể kỷ XX mới được Toà thánh Rôma cổ suý.
         Sự ảnh hưởng còn bởi ở chiều ngược lại, tức Công giáo ảnh hưởng tới Nho giáo. Điều này thể hiện rõ nhất ở phong trào Đông kinh nghĩa thục, Cổ suý cho vệc dùng chữ Quốc ngữ một loại chữ do giáo sỹ thừa sai tạo ra, coi đây là một trong sáu kế sách mở mang dân trí nước ta thời cận đại./.
***
 
RELATIONS BETWEEN CONFUCIANISM AND CATHOLICISM IN VIETNAM
Ass.Prof. Dr. Nguyễn Hồng Dương
The Institute for Religious Studies
Catholicism was propagated and began to stay in Vietnam in XVII century. It was in theLờ Trung Hung period. Confucianism was used by Lờ dynastyas the ideology to govern the state. Other religions like Buddhism, Taoism were also widespread among the people, and had a certain influence on the government line of Lờ dynasty.
The appearance of Catholicism in Vietnam was already a religious event since its beginning.Because it was the propagation ofareligion that was quite different from other traditional ones. This religion did not recognize all other present religions, regarding them as false ones. This attitude was expressed by the viewpoint of Alexandre de Rhodes, whose Vietnamese name was Dac Lo (1593- 1660) through the work Phộp giảng tỏm ngày, then by the common letter of bishops to their religionists and by other documents of the Roman Holy See.
To defend the dogmas, to preserve the religious faith/belief, debates on learning level had taken place between Confucianism and Catholicism.The content was to extol one's own religion and to degrade the opposing one. That was the reasonofthe book "Tây Dương gia tô bi lục" of a Confucianismto attack the Catholic dogmas, and the book " Hội đồng tứ giáo danh sư" of the Catholic priest to refute Confucianism. This attitude of criticizing Catholicism of Lờ, Nguyễn dynasties was also expressed in the edicts of the Scholar Movement asking Bỡnh Tõy sỏt tả
The causes of the above-said situation were various, but the main reason was the fact that, on the side of Catholicism, before Vatican II Community (1962- 1965), Catholicism did not recognize any other religions except Catholicism, and on the side of Confucianism, represented by the feudal state, of famous Confucianists in their fear that Catholicism would destroy their culture, especially the cult of ancestors in contradiction to Confucian values that had been used as the ideology for the government of the country.
But over the years, from the non- official aspect, Vietnamese Catholicism was gradually influenced by Confucianism. Catholicism adopted ideological, aesthetical values, even the worldview of Confucianism. The above –said values were expressed in the way Catholicterms of the Catholic mentality were translated into Vietnamese so that theVietnamese believers could understand and adopt, through the architecture, the life –style according to the popular moral that was only approved by the Roman Holy See at the end of XX century.
The difference was also expressed in an inverse direction by the Catholic influence on Vietnamese Confucianism. This influence was most clearly expressed inthe Đông Kinh Nghĩa thục movement that promoted the writing created by Catholic Jesuits, as one among the six plans for the edification of the new people’s standard of culture in the modern times.