Saturday, March 1, 2014

Nguồn gốc họ Đinh ly kỳ như truyền thuyết

DVT.vn  - 15/09/2011 14:50

(DVT.vn) - Họ Đinh, dòng họ văn vật nhiều đời, gắn liền với những tên tuổi lớn như Đinh Bộ Lĩnh… Nguồn gốc họ Đinh được kể lại như một truyền thuyết.               

Họ Đinh, theo truyền thuyết là hậu duệ của Kim ngô Đại tướng quân Đinh Điền, em của Đinh Tiên Hoàng (tức Đinh Bộ Lĩnh).

Ngược về nguồn gốc xa hơn nữa, họ Đinh có thể vốn bắt đầu từ con thứ của Khương Tử Nha đời nhà Chu là Lã Cấp, tên thụy là Đinh Công. Con cháu đời sau mới lấy tên thụy của tổ tiên làm họ.

Con của Tứ Nhạc (bề tôi của Vua Nghiêu) phò tá vua Vũ. Ông nối nghiệp cha tiến hành trị thủy thành công chín dòng sông ở Trung Hoa, được tập phong làm hầu quốc đời nhà Hạ. Khi nhà Hạ mất, họ này bị giáng xuống làm thứ dân, trải suốt đời nhà Thương, cho đến khi Khương Tử Nha.

Khương Tử Nha họ Lã, tên Vọng, thường câu cá ở bờ sông Vị, sau được vua Văn Vương nhà Chu vời về triều làm thày dạy cho Vũ Vương.

Ông có công phò giúp Vũ Vương đánh thắng nhà Ân, được phong nước Tề (tức Tề Thái Công) phò tá Chu Vũ Vương, được phong cho nước Tề. Con của ngài là Lã Cấp giữ chức hổ bí (còn đọc là hổ bôn, chức quan nhà Chu, chuyên cai quản các nghi thức bảo vệ vua chúa khi đi ra ngoài kinh thành), đổi hiệu là Đinh công (Đây là trường hợp lấy tên thụy của tổ tiên làm họ. Theo Thiên thị tộc lược sách thông chí chép, vào thời Tây Chu (thế kỷ thứ XI trước Công nguyên) cắt đất phong cho chư hầu, Khương Thái công (tức Khương Tử Nha) được phong đất Tề.

Con của ông là Lã Cấp nối nghiệp, sau khi mất có tên thụy là Đinh Công, hậu duệ về sau lấy tên thụy của ông làm họ Đinh. Sách Tính thị khảo lược cũng chép: Họ Đinh xuất phát từ Lã Vọng, phân bố ở Tề Am, Tề Dương. Tề Dương là tên quận đặt ra thời Tấn Huệ đế (ở ngôi năm 290-306) do cắt đất quận Trần Lưu, nay thuộc vùng đất huyện Lan Khảo, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Tề Âm là tên nước được lập ra năm Trung Nguyên thứ 6 (năm 144) đời vua Hán Cảnh Đế, nay thuộc vùng huyện Định Đào, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Từ đấy họ này chia ra ngành trưởng lấy họ Lã, ngành thứ lấy họ Đinh. Nguồn gốc họ Đinh bắt nguồn như thế.

Thời Tây Chu phát triển thịnh vượng, các thế hệ dòng họ sau này kế tiếp nhau giữ chức hổ bí. Khi nhà Chu chuyển dời về phía đông, họ tộc này cũng dời đi theo.

Thời Xuân thu - Chiến quốc, họ này chạy loạn về đất Giang Nam. Trải suốt từ thời nhà Hán cho đến nhà Đường, họ này sống yên ổn bằng nghề nông. Đến khi có loạn Hoàng Sào (người Tào Châu, Sơn Đông) đời Đường, năm Càn Phù thứ 2 (874), người họ này tham gia cuộc khởi nghĩa của Vương Tiên Chi. Sau khi Vương Tiên Chi chết, lên thay làm thủ lĩnh, hiệu là Xung Thiên Quân Bình Đại Tướng quân, đem quân đánh phá Quảng Châu, rồi tiến lên phía bắc đánh Lạc Dương, vào Trường An, lập ra chính quyền Thiên Tề, đặt niên hiệu Kim Thống.

Sau bị Lý Khắc Dụng đánh bại, cuối cùng phải tự vẫn năm Trung Hòa thứ 4 (884), người họ Đinh phải rời đất liền ra biển, ngồi thuyền lênh đênh trôi nổi theo sông nước, không gặp được gió thuận, nên phiêu bạt xuống phương nam, một mình đơn độc gửi thân ở Gia Viễn, Ninh Bình. Mãi sau này, người họ này sinh được hai người con trai. Hai người con trưởng và con thứ mỗi người lại sinh được một con trai. Người anh cả mất sớm. con của ông anh cả rất có tài bơi lặn dưới nước, năm 12 tuổi chuyên nghề lặn sông bắt cá nuôi mẹ, họ cùng sống nương tựa vào ông chú. Con trai của ông chú tên là Đinh Điền, mới 4 tuổi thường chăn trâu chơi đùa với cánh trẻ con trong làng.

Thời bấy giờ ở Bắc quốc có một người tinh thông thuật số, đêm chiêm tinh trên trời thấy có sao Thiên Mã chiếu xuống vùng sông Mã nước Nam, bèn cất công dò theo dấu vết lần tìm đến nơi, nhận biết dưới đáy nước có ngôi huyệt hình Thiên Mã. Người ấy bèn lân la hỏi đám trẻ mục đồng có ai tài giỏi dám lặn xuống đáy nước thì sẽ trọng thưởng. Người anh nhận lời, theo lời thầy thuật số lặn xuống đáy sông xem xét, thấy quả đúng có huyệt như lời ông ta nói. Thầy thuật số dặn hôm sau lại tới phiền lần nữa và hứa cũng sẽ thưởng hậu.

Người anh hiểu ra ngay ý định của thầy, ông bèn trở về thu xếp ngầm đem hài cốt của ông nội và của cha mình gói ghém gọn thành một bọc. Hôm sau, thầy thuật số Bắc quốc tới nơi, giao cho ông một bọc bao mang xuống đáy nước, rồi cứ theo cách thức như thế mà làm. Ông liền đem cái bọc quấn bằng giẻ áo quấn vào mình quanh chỗ bụng rốn, thác cớ là gần đây hay bị đau bụng. Người Bắc quốc cũng tin lời. Ông liền lặn xuống nước, đem bọc hài cốt nhà mình đặt vào miệng ngựa, còn bọc của người kia đem treo vào cổ ngựa. Nguyên do là người kia có có phép thuật, nên chỉ khi ông ta niệm chú thì miệng ngựa mới há ra, nhờ thế mới làm xong việc.

Sau đó, ông thầy Tàu trở về bản quốc, đêm ra xem tượng ngựa sao, vẫn thấy chiếu xuống nước Nam, lấy làm lạ nhẩm tính một hồi thì biết là mình đã mắc lừa, lòng tức tối lắm, nghĩ cách báo thù. Ông ta bèn lấy cái gậy làm thành thanh gươm thần, nhờ một người khác sang ta nói phao lên rằng: Đã có được huyệt đất rồi, nhưng có ngựa mà không có gươm thì làm được việc gì? Ông nghe thấy cũng có lý, tin ngay, cầm cái gươm lặn xuống nước treo vào đầu ngựa. Không ngờ vừa đeo gươm vào cổ ngựa thì bổng thấy sát khí ùn ùn bốc lên. Sau này ông lên ngôi, hưởng nước không được lâu dài chính là vì cái cớ đó.

Nhưng, đấy là chuyện xảy ra sau này. Còn từ bấy giờ trở đi, ông biết mình đã được đắc địa, nên không hề hé lộ chuyện ra ngoài, chỉ kể cho người em họ là Đinh Điền biết mà thôi. Một bữa đi chăn trâu ngoài đồng, ông giết ngay con trâu đem mổ thịt rồi hội các bạn lại làm lễ tế khao quân. Lúc ấy, ông đàng hoàng ngồi chĩnh chiện, mặt ngoảnh về hướng nam, có Đinh Điền và Nguyễn Bặc đứng hầu hai bên, bọn trẻ còn lại đứng phân thành hai bên đứng theo thứ bậc cùng đồng thanh tung hô. Tế xong liền mở tiệc, nghi thức theo y như phép tắc ở chốn triều đình. Người chú ở nhà hay tin đùng đùng nổi giận, vác ngay con dao phát bờ đuổi đánh. Ông vội nhảy đại xuống sông, miệng hô: “Giang thần mau cứu ta!” Trên sông bỗng hiện ra một con rồng đất cúi đầu đỡ lấy bàn chân ông. Người chú nom vậy thì kinh sợ, cắm vội con dao xuống đất, chắp tay hướng về lòng sông cầu khấn thần minh cùng trời đất phù hộ cho dòng họ nhà mình.

Từ đấy lòng người suy tôn ngưỡng mộ, dân chúng hướng cả về theo Đinh Điền và Đinh Bộ Lĩnh. Đến sau, Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan được mười hai Sứ quân, bắt đầu mở ra nền chính thống cho non sông nước Việt ta. Ông trở thành vị vua đầu tiên trong các bậc đế vương nước mình. Dòng họ Đinh cũng bắt đầu vẻ vang từ đó!

Cố nhiên, câu chuyện chúng tôi vừa kể về nguồn gốc họ Đinh còn nhuốm màu huyền thoại. Rất mong các nhà nghiên cứu về lịch sử các dòng họ Việt Nam cũng như các bậc thức giả góp thêm ý kiến khảo đính.

Hàn Mai

Source Bao Moi
-----------

Tài liệu tham khảo thêm Họ Đinh Việt Nam
 

Thursday, February 27, 2014

Tục Kết Chạ giữa các làng Quan họ cổ bên dòng sông Cầu

( 08:33 | 29/07/2013 )
 
Bắc Giang nằm trong vùng văn hoá Kinh Bắc, đi khắp các miền quê trong tỉnh ở đâu cũng có những làn điệu dân ca trữ tình. Đó là vốn di sản văn hoá phi vật thể quý giá góp phần làm phong phú thêm kho tàng dân ca của dân tộc. Mỗi làn điệu dân ca ngân vang suốt chiều dài lịch sử phản ánh đời sống tình cảm, tình yêu quê hương, đất nước, con người Bắc Giang.
 
Đất Kinh Bắc xưa nơi có 49 làng Quan họ, duy chỉ có làng Diềm tên chữ là “Viêm Xá” có đền thờ thuỷ tổ quan họ gọi đền Vua Bà hay đền Bà Chúa. Gần đây khi nghiên cứu, điều tra quan họ bên bờ Bắc sông Cầu, tại làng Việt cổ Trung Đồng thuộc huyện Việt Yên, chúng tôi cũng thấy có đền Vua Bà, nhân dân địa phương còn gọi đền Bà Chúa. Nghiên cứu các thư tịch cổ, tư liệu Hán-Nôm từ văn bia, sắc phong thời Lê và thời Nguyễn ở đình, đền, chùa Trung Đồng cho hay làng Trung Đồng xưa thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Từ lâu đời làng này đã có tục kết chạ với làng Thượng Đồng và Hạ Đồng (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Đó là mối tình huynh đệ gắn bó ngàn đời giữa các làng quan họ cổ bên dòng sông Cầu. Tương truyền tục kết chạ bắt nguồn từ xa xưa khi Bà Chúa đưa dân về khai phá lập làng trong đó có các làng Trung Đồng, Thượng Đồng và Hạ Đồng, cả ba làng đều thờ Bà Chúa và có mối tình huynh đệ kết nghĩa với nhau. Nơi thờ chính vị chúa Bà là ở Thượng Đồng, Hạ Đồng, vùng Diềm (Bắc Ninh) và được coi là thuỷ tổ quan họ.
Liền chị Quan họ thôn Trung Đồng, xã Vân Chung, huyện Việt Yên - Ảnh: Ngọc Dưỡng
 
Đền thờ Bà Chúa làng Trung Đồng hiện nay toạ lạc ở trung tâm làng. Ngôi đền cổ kính có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Nhị, bên trong hậu cung đặt tượng Bà Chúa tôn thờ. Đền còn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật quý có giá trị trong đó có tấm bia đá thời Nguyễn khắc chữ Hán có giá trị nghiên cứu khoa học. Tại chùa Trung Đồng cũng có ban thờ Bà Chúa, lại có đôi câu đối, nội dung ghi rằng: “Đại Việt lưu truyền tiếng tăm của bậc mẫu nghi thiên hạ, dấu tích linh thiêng còn mãi. Đạo cao đức trọng được triều Trần phong là bậc triều trung nữ Chúa có phẩm hạnh được tôn vinh”. Đặc biệt làng Trung Đồng còn lưu giữ được bản thần tích ghi lại sự tích và công trạng của Bà Chúa đại thể như sau: Bà Chúa là người Quả Cảm, Yên Phong, Bắc Ninh được vua Trần Anh Tông tuyển làm Hoàng phi, bà có nhiều công lao với dân với nước, đề xuất nhiều chủ trương về phát triển nông nghiệp, khai khẩn đất hoang, dạy dân cách ươm tơ dệt lụa. Là người đề xuất giữ gìn văn hoá dân tộc, phát triển dân ca, dân vũ vùng Kinh Bắc. Khi bà mất được nhà vua truy phong làm Hoàng hậu và cho dân thờ làm phúc thần ở Thượng Đồng, Trung Đồng và Hạ Đồng. Công lao của bà được các triều đại sau này ghi nhận phong tặng nhiều danh hiệu mĩ tự cao quý. Đời vua Lê Cảnh Hưng phong là đức Vua Bà. Các đời vua Nguyễn sau này đều có sắc phong với danh hiệu và mỹ tự cao quý.
 
Hàng năm, vào ngày mồng mười tháng Giêng âm lịch, là ngày giỗ Bà Chúa nhân dân làng Trung Đồng lại sửa lễ sang chạ anh tức làng Thượng Đồng và Hạ Đồng thuộc tỉnh Bắc Ninh góp lễ tôn thờ Bà Chúa. Ngược lại ngày mười năm tháng Tám, ngày sinh Bà Chúa, hai làng Thượng Đồng và Hạ Đồng lại sửa lễ sang làng Trung Đồng thuộc tỉnh Bắc Giang dự lễ. Các ngày sự lệ ở hai bên đều có sinh hoạt hát quan họ giữa các chạ với nhau. Như vậy ở làng Trung Đồng bên bờ Bắc sông Cầu cũng có một ngôi đền nữa thờ Bà Chúa hay còn gọi đền thờ đức Vua Bà. Khảo sát và sưu tầm các bài dân ca quan họ ở làng Trung Đồng cho thấy các anh hai, chị hai ở đây hát những bài quan họ gốc rất cổ xưa mà ít thấy ở đâu có được ví như bài:
 
Trung Đồng - Hà Nội đâu xa,
đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng,
Em là con gái Trung Đồng,
Hát bài thung dung,
Anh hai tài tử,
Ai lên Xứ Lạng,
Đi tìm bạn,
Lên chùa tìm cảnh mà chơi....,
 
Ông Hoắc Công Chờ đã ngoài 70 tuổi, một anh hai quan họ làng Trung Đồng kể: Trước kia trong làng có bọn chơi quan họ, vào các dịp lễ tết, hội hè, giêng hai, bọn quan họ trong làng thường đi hát giao lưu khắp các hội làng trong vùng Xứ Bắc, đặc biệt là thường hát trong các đám hội ở bờ Nam Sông Cầu cùng các chạ anh ở Quả Cảm, vùng Diềm, vùng Vát và vùng Lim (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Bên bờ Bắc sông Cầu có vùng Nếnh, vùng phủ Lạng Thương… Do điều kiện kháng chiến đến những năm 1948-1954, sinh hoạt hát quan họ ở làng Trung Đồng cũng như nhiều làng khác bị gián đoạn. Tuy nhiên trong làng vẫn có những người yêu và chơi quan họ, hát quan họ khi điều kiện cho phép. Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Nhà nước nên việc sinh hoạt quan họ ở Trung Đồng được duy trì đều đặn hơn. Làng hiện có một đội quan họ là các anh hai, chị hai đã từng đi hát nhiều năm. Các thế hệ trẻ cũng đang được lớp đàn anh đi trước truyền dạy kinh nghiệm nhằm bảo tồn và duy trì vốn di sản văn hoá dân tộc.
 
Đồng Ngọc Dưỡng
 

Tuesday, February 25, 2014

Xuân Này Con Về - Đinh Văn Thắng (Tony)

Xuân Này Con Về.

Đối với những người trong quân đội VNCH trước năm 1975 (sau năm 1968 - Tết Mậu Thân) nói riêng và hầu như tất cả dân chúng miền Nam VN nói chung, và nhất là những người con xa nhà, mỗi khi Xuân về, chúng ta không thể quên nhạc phẩm “Xuân này con không về” của cố nhạc sỹ Nhật Ngân.

Tôi rời VN vào Hè năm 1981, đã 33 năm không về VN vào dịp Tết được, cứ Xuân đến rồi Xuân đi, tưởng rằng sẽ không bao giờ về ăn Tết với Mẹ Già nữa. Nhưng đến năm nay (năm thứ 34), bất ngờ bị thất nghiệp, tôi đã tranh thủ để về VN mừng Xuân và thăm Mẹ Già cũng như thăm họ hàng, thầy trò, bạn hữu vào dịp Tết năm nay. Một chuyến đi thật bất ngờ cho cả bản thân tôi và gia đình. Chuyến đi lần này không dự định mà lại đi được, ngược lại 33 năm trước cố gắng đi thì lại không kỳ nào về VN vào dịp Tết được cả. Chuyến đi lần này đã cho tôi quá nhiều ngạc nhiên và thú vị. Tôi đã cố gắng đi thăm họ hàng trong Sài Gòn, nhất là những người lớn tuổi như dì Cuông (Phan Thị Xin), dì Chỉ, cậu Nguyễn Tuyển Thiệm, bác Hậu gái, cậu Diệm, bác Tòng, chú Hoàn (chồng dì Đinh Thị Lộc) vv...  Định đi Phước Lý, Bảo Lộc và Đà Lạt, nhưng tôi đã không còn đủ thời gian nữa, cho nên đành hẹn lại dịp khác vậy. Sau đây, tôi sẽ lần lượt tường thuật lại chuyến viếng thăm họ hàng của từng gia đình mà tôi đã đi thăm.

Người đầu tiên, tôi xin giới thiệu đến qúy đồng hương thân mẫu của tôi là bà Phan Thị Yêm, năm nay bà 86 tuổi (tính theo tuổi ta, bà sinh năm 1929).

Vào 11:45 đêm ngày 31-1-2014 (tức ngày mùng 1 Âm lịch - Tết), tôi về tới phi trường Tân Sơn Nhất, tôi đã về bất ngờ, không báo cho ai biết, chỉ riêng cho hai đứa cháu Bi và Boy (Sơn và Hùng con của chị Hiền).

Hai cháu cũng giữ bí mật để tạo bất ngờ cho Mẹ Già và gia đình. Giữa đêm mùng Một là tôi đã đặt chân tới nhà chị Hiền, nhưng giờ đó Bà đã an mạnh trong giấc ngủ thường ngày, cho nên đành phải chờ thêm vài tiếng nữa mới báo cho Mẹ Già biết. Tôi đã thức trắng đêm. Đêm thật là dài, giờ giấc bị thay đổi, không có cách nào ngủ được, tôi cứ thao thức và ôn lại kỷ niệm cũ và đứng balcony (băng công) nhìn vào xóm vắng. Xóm làng đã bắt đầu chìm sâu trong màn đêm, lúc này đã làm tôi liên tưởng đến nhạc phẩm Xóm Đêm của nhạc sỹ Phạm Đình Chương “Xóm vắng im lìm…! Nghe ai thoáng ru câu mến trìu, Nghe không gian tiếng yêu thương nhiều…!”

Tôi đã cố nằm thiếp đi để cho đêm ngắn lại, thế rồi lúc 4:30 sáng, tiếng chuông nhà thờ An Lạc bắt đầu đổ rầm rộ, tiếp đó 4:45 tiếng chuông nhà thờ Tân Chí Linh, nhà thờ Nam Thái nối đuôi nhau liên tục vang dội khắp xóm làng. Tiếng gà gáy, tiếng xe Honda đã bắt đầu nối đuôi nhau, thi thoảng lại có chen vào những tiếng rao hàng rong “bánh mì nóng, bánh chưng, bánh dày nóng vv…!” Thật là thú vị, đã lâu lắm rồi tôi lại được nghe, thấy và cảm nhận được hương vị xóm làng và cuộc sống đời thường của Sài Gòn, được nghe những tiếng chuông Nhà Thờ đổ rầm rộ, được nghe tiếng rao hàng rong, được nhìn lại cảnh người buôn thúng bán bưng, nhìn thấy những nhọc nhằn của người bán hàng rong, thật là tội nghiệp, dù chỉ là mùng Hai Tết đã bắt đầu phải lăn lộn trong cuộc sống…!  

Cuối cùng cũng đến lúc Mẹ Già đã nhận được sự Ngạc Nhiên mà tôi mang đến cho Mẹ. Nhìn vào đồng hồ đã 6:30 sáng, tôi vội vàng đi thăm Bà (tức là tôi ở từ nhà chị Hiền, Mẹ ở nhà gần đó). Bất ngờ Mẹ Già và tôi đã gặp nhau, lời đầu tiên tôi gặp Mẹ và thốt lên câu: “Mẹ ơi, Xuân Này Con Về rồi.”  Bà vui quá sức, Bà không nói nên lời, chỉ biết cười và rươm rướm nước mắt. Sau đó, Mẹ tôi nói: “Con về sao không báo cho Mẹ biết ?”. Tiếp đó Bà bảo tôi qua nhà anh Ất - chị Khuyên báo cho anh chị ấy biết. Thật là bất ngờ, cả nhà ai cũng vui mừng. Chị Khuyên tôi (vợ của anh Ất) lăng xăng chạy ra vào và nói “Chị mừng quá, cậu về mà chẳng báo gì cả…! Thế rồi mọi chuyện đâu vào đấy.

Về vào dịp Tết thật là thú vị, có bà con đến chúc Tết gia đình, tôi đã gặp khá nhiều bà con họ hàng qua chúc Tết cho Bà như vợ chồng anh Thông con bác Hậu, anh giáo sư Anh văn Nguyễn Văn Đảng ở Biên Hòa, Thái và Lâm con dì Chỉ, thêm đó Duyên và người chồng ở bên Pháp về ăn Tết nữa, chị Ven, vv….

Qua tới ngày mùng Ba Tết, 9 giờ sáng tôi đã chạy qua Chúc Tết người Thầy năm xưa + người Cậu đã giúp tôi luyện thi lớp 6 vào năm 1972-1973, cũng nhờ người Thầy này mà tôi đã vượt qua vòng thi tuyển (3600 thí sinh, chọn có 360 em), và tôi đã thực sự bước vào ngưỡng cửa trường Trung Học Nguyễn Thượng Hiền năm 1973, bây giờ gọi là Trung học Phổ Thông, tức cấp 3. Trước kia, trường này mang tên “Trường Trung Học Tân Bình”, đến niên khóa 1974-1975 trường được đổi tên Trung Học Nguyễn Thượng Hiền cho đến ngày nay. Theo Bộ Quốc Gia Giáo Dục trước năm 1975, Trường Trung học này dạy từ lớp 6 đến lớp 12. Sau năm 1975, trường có sự thay đổi và chỉ dạy Trung Học Đệ Nhị Cấp.

Tôi muốn nói đến Thầy JM Lam Thy ĐVD. Thật là vui mừng khi gặp lại Thầy. Chuyện trò thật say mê, học hỏi từ chữ Nho đến chuyện nhà thờ GX Dũng Vy vv…



Hôm đó quá vội vàng đi chúc Tết Cậu, cho nên không mang máy ảnh theo. Mãi tới ngày cuối cùng trước khi về lại USA (ngày 19-2-2014) tôi mới trở lại thăm Cậu và từ giã Cậu, luôn thể chụp hình và học hỏi cũng như ôn lại kỷ niệm. Hai Cậu Cháu chuyện trò rất vui vẻ và cởi mở…! Bài tới tôi sẽ viết nói thêm về cuộc viếng thăm Thầy JM Lam Thy ĐVD. 

Từ từ tôi sẽ viết để tâm sự cùng qúy đồng hương câu chuyện viếng thăm những người họ hàng khác như dì Cuông, dì Chỉ, vợ chồng Nhan (con chú Đinh Công Khảo), hai chị Uyên (Bốt), chị Thúy con ông Nguyễn Văn Sở (ông Bốt), bác Đinh Quang Tòng, bác Tân, gia đình chú Hoàn, ông Nguyễn Tuyển Thiệm và gia đình chị Hữu ở Long Giao - Long Khánh, anh Đinh Văn Hồng con ông Chẩn ở Đồng Xoài (trước kia ở Phước Lý) và một vài người nữa. Tạm thời dừng bút và hẹn gặp lại qúy vị vào bài kế tiếp.

Dallas Texas, ngày 25-2-2014.
Tony Thắng Đinh. 

-----------
Ghi chú của Blog KYDV:

Quý đồng hương và bạn đọc cũng có thể xem bài viết này tại Hình ảnh - Văn bản KYDV - Đinh Văn Thắng.