Thursday, October 24, 2013

Dũng Vi tổng các xã thần sắc‏ (Dẫn giải) - Đinh Văn Diệm


From:Van Diem Dinh (lamthydvd@gmail.com)
Sent:Thu 10/24/13 2:41 AM
To: Thức Đinh (dthuc@live.com); Tony Thang Dinh (todi_1999@yahoo.com); Tuyen Dinh (tuyend@yahoo.com); Khai Nguyen (phaolo200930@yahoo.com)

1 attachment (91.2 KB)

Cháu Thức,
 
Chú vẫn nhớ, trước 1945, thì làng nhà được gọi là làng Dũng Vy, xã Dũng Vy, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Sau 1945, đổi thành xã Tri Phương. Các cụ vẫn nói Dũng Vy là “nhất xã tam thôn” – một xã 3 thôn: thôn Ngoài (thôn Giáo), thôn Trong (thôn Lương) và thôn Đinh. Lúc đầu chỉ có 2 thôn (được Vua ban chiếu chỉ đàng hoàng) là thôn Đinh và Thôn Lương. Về sau, thôn Lương lại chia thành 2 thôn nhỏ hơn và gọi là thôn Ngoài và thôn Trong. Khi Dũng Vy tòng Giáo, chỉ có thôn Ngoài theo Đạo, nên thôn này được gọi là thôn Giáo, và thôn Trong được gọi lại đúng tên từ trước: thôn Lương. Như vậy thì phải hiểu từ xa xưa, xã Dũng Vy chỉ có 2 thôn: Thôn Đinh + Thôn Lương và có Sắc Chỉ của Vua ban đàng hoàng (敕 紙 sắc chỉ: Chiếu thư của nhà vua).
 
Triều đại phong kiến coi Vua là Thiên tử (con Trời) nên để tôn kính thường gọi là Thần vương Thánh đế. Vì thế, sắc phong hay chiếu chỉ vua ban thường gọi là Thần sắc, Thánh chỉ (chiếu chỉ của thần thánh). Vậy đoạn văn “BẮC NINH TỈNH TIÊN DU HUYỆN DŨNG VI TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC ” phải được hiểu là: Sắc chỉ của Vua ban cho Tổng Dũng Vy, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Chiếu chỉ sắc phong thôn Đinh do vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) ban, còn chiếu chỉ sắc phong thôn Lương là do vua Cảnh Thịnh (con của Quang Trung) ban:

BẮC NINH TỈNH, TIÊN DU HUYỆN, DŨNG VI TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC 北 寧 省 仙 遊 縣 勇 為 總 各 社 神 敕 (Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm)
 
1- Sắc phong thôn Đinh gồm 2 đạo (đạo : văn bản), 1 bản do Vua Quang Trung (Đại Vương), 1 bản do Hoàng Thái Hậu (mẹ của Vua Cảnh Thịnh, tức Hoàng Hậu của Quang Trung) ban cho người quyền quý số 1 (đệ nhất cao gia). Điều này (tên gọi “thôn Đinh”: thôn ấp của họ Đinh) càng cho thấy lời các cụ truyền lại là xác thực: “Cụ tiên tổ họ Đinh đã đến khai hoang lập ấp Dũng Vy, về sau mới quy tụ các họ khác”. Còn vì sao lại có vụ Hoàng Thái Hậu ban sắc chỉ ? Đó là vì khi vua Quang Trung mất (1792), hoàng tử Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi (lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh); vì vua còn nhỏ tuổi (10 tuổi) nên Hoàng Thái Hậu phải phụ việc triều chính (gọi là “nhiếp chính”). Đó là lý do giải thích tại sao chiếu chỉ của vua mà lại do Hoàng Thái Hậu (mẹ của vua) ban hành.
 
2- Sắc phong thôn Lương cũng gồm 2 đạo: 1 do Vua Quang Trung, 1 do vua Cảnh Thịnh (lúc này đã chính thức làm vua), ban cho cùng một lúc 3 nhà quyền quý (đệ nhất cao gia, đệ nhị cao gia, đệ tam cao gia). Vua Cảnh Thịnh cũng chỉ ở ngôi vua được 10 năm (1792-1802) thì bị Nguyễn Ánh lật đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long.
 
Cũng cần hiểu thêm về tên gọi Khê Lương: Ngòi nước tốt lành (Khê 溪 là khe nước, ngòi nước; Lương 良 là lương thiện, tốt lành). Đó chính là con ngòi Cầu Ve (còn gọi là Ngưu Giang) khơi nguồn từ góc làng phía đông nam (cổng Vườn Thứ), ôm sát lũy tre làng chảy qua Cầu Cung (phía nam làng), rồi quẹo theo lũy tre làng chảy về hướng bắc, tới Nghè Mậy (đầm Tam Giang) hợp lưu với nhánh ngòi chảy từ Đồng Xép (hướng tây bắc) rồi chảy về phía đông, mãi tới Lục Đầu Giang rồi đổ ra biển Đông (Thái Bình Dương). Ngòi Cầu Ve quãng từ Nghè Mậy tới Bờ Cừ vẫn được dân làng gọi là Tào Khê. Chính là chữ Khê trong Khê Lương vậy.
 
Ở Kỷ Yếu Dũng Vy số 1, chú đã viết: Ở ngay sát cạnh thôn Đinh có 2 di tích là Đền Vua và Trường bắn (xạ trường) Mả Ngụ. Được gọi là Đền Vua vì đó chính là nơi Vua thường ngự giá vi hành. Còn Mả Ngụ có lẽ là do từ Mã Ngự (ngựa của nhà vua) đọc trại (phát âm không chuẩn) mà thành. Một chứng tích khác chứng minh là từ Đền Vua đi vào thôn Lương có cổng Cầu Cung (求 恭 có nghĩa là kính cẩn cầu xin), đây là nơi Vua cầu phúc cho những lần ngự giá thân chinh xạ tiễn (nhà vua cưỡi ngựa bắn cung) tại xạ trường. Vì thế, dân làng khắc trên cổng 3 chữ “Phúc Lai Vi” ( có nghĩa “hành động đem lại sự tốt lành hạnh phúc”).
 
Ngoài ra, những con số (5086/ 48. AD. A7/ 27.) là những mã số của thư tịch.

Chú Diệm.

----------


From:Thuc Dinh (dthuc@live.com)
Sent:Wed 10/23/13 11:12 AM
To: Diem Dinh Van (lamthydvd@gmail.com)
 
1 attachment (91.2 KB)

Chào chú Diệm

Cháu tìm thấy văn bản cổ này trên kho thư tịch của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm (Attached).
Văn bản này là gì? Có liên quan gì với Dũng Vy làng mình không? Chú rành về Hán văn nên có thể hiểu. Chú giải thích dùm cháu. Cảm ơn chú.

Chúc sức khỏe.
Cháu - Thức
----------

KYDV tìm thấy tài liệu Hán-Nôm mang tên "Bắc Ninh tỉnh Tiên Du huyện Dũng Vi tổng các xã thần sắc", mang ký hiệu AD.a7/27 đăng trên mạng của Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm. Nguyên văn như sau:

5086/ 48. BẮC NINH TỈNH TIÊN DU HUYỆN DŨNG VI TỔNG CÁC XÃ THẦN SẮC 北 寧 省 仙 遊 縣 勇 為 總 各 社 神 敕 - 1 bản viết, 14 tr., 32 x 22, chữ Hán.

AD. A7/ 27.

Thần sắc 2 thôn, thuộc xã Dũng Vi, tổng Dũng Vi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
1. Thôn Đinh , xã Dũng Vi 勇 為: 6 tr., phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Đệ Nhất Cao Gia... Đại Vương 第 一 高 家...大 王; Đệ Nhất Cao Gia... Hoàng Thái Hậu 第 一 高 家... 隍 太 后.
2. Thôn Khê Lương 溪 良, xã Dũng Vi: 6 tr., phong cấp vào các năm Quang Trung (1 đạo), Cảnh Thịnh (1 đạo).* Phong cho Đệ Nhất Cao Gia, Đệ Nhị Cao Gia, Đệ Tam Cao Gia... Đại Vương 第 一 高 家, 第 二 高 家, 第 三 高 家...大 王
 

Danh sách di tích, di sản văn hóa ở Bắc Ninh

Danh sách này liệt kê các di tích, di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Đền Bà Chúa Kho
 

Source Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Monday, October 21, 2013

Bắc Ninh - Nơi duy nhất có lăng mộ thủy tổ nước Nam

14/10/2012 1:33:21 CH

Lâu nay, nói đến Bắc Ninh, người ta thường chỉ biết đến là quê hương của những làn điệu Dân ca Quan họ - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của Nhân loại mà ít người biết rằng, Bắc Ninh còn là miền đất hội tụ nhiều bậc thủy tổ như: Thủy tổ Hán Học - Sĩ Nhiếp, Thủy tổ Phật giáo - chùa Dâu, Thủy tổ Quan họ - làng Diềm và đặc biệt là Thủy tổ dân tộc đang được thờ phụng trong khu di tích lịch sử văn hóa Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành (huyện Thuận Thành). Đây là nơi duy nhất trên cả nước hiện đang còn lưu giữ phần mộ “Nam Bang thủy tổ” (thủy tổ nước Nam) và là điểm đến quan trọng cho mọi người dân đất Việt hành hương về với cội nguồn “vấn tổ tầm tông”.


Hàng năm vào ngày chính hội 18 tháng Giêng, nhân dân các vùng miền của tổ quốc lại xuôi dòng sông Đuống về bái yết Thủy tổ dân tộc.
Dấu thiêng vang vọng muôn đời

Tựa mình bên triền đê uốn lượn, dưới tán cây cổ thụ, Lăng Kinh Dương Vương được xây dựng từ lâu đời trên bãi đất cao, uy nghiêm với kiến trúc nghệ thuật cổ độc đáo, phần mộ đặt chính hướng Bắc nhìn thẳng ra dòng Thiên Đức cuộn đỏ phù sa. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840) triều Nguyễn đã cho tu bổ lăng và lập bia với 4 chữ “Kinh Dương Vương lăng”. Toàn bộ diện tích khuôn viên Lăng mộ rộng hơn 20 nghìn m2 có nhà tả văn, hữu võ, nhà bàn soạn, nhà trình và còn bảo tồn được vườn cây cổ thụ xanh mát quanh năm. Ông Phạm Thuận Thành, hội viên Hội Văn học, nghệ thuật tỉnh, người gắn bó máu thịt với từng làng, xã của quê hương Thuận Thành từng tự hào khẳng định: “Lăng Thủy tổ nước Việt là nơi neo giữ, cố kết tâm hồn Việt thành dân tộc, thành quốc gia từ bao đời nay. Mỗi lần đến đây, lịch sử mấy ngàn năm như lời nhắc mỗi người dấu thiêng thời mở nước”…

Các bậc cao niên làng Á Lữ cho biết: Những bức đại tự, câu đối, sắc phong hiện còn lưu giữ tại đây cho thấy Lăng Kinh Dương Vương thời xưa được xếp vào hàng miếu thờ đế vương các triều đại, mỗi lần tổ chức quốc lễ đã ban sắc, gia phong mỹ tự, sai quan đến tế lễ trang nghiêm, trọng thể, đồng thời cho tu bổ, tôn tạo và lập bia…

Cách Lăng mộ không xa, phía trong đê là Đền thờ Kinh Dương Vương còn lưu giữ rất nhiều đạo sắc phong, thần phả, đồ thờ tự, câu đối, bia ký có giá trị đã chứng tỏ việc thờ cúng các vị Thủy tổ dân tộc ở Á Lữ có từ rất xa xưa. Qua đó, khẳng định vị trí quan trọng của khu di tích trong đời sống tinh thần của người dân địa phương cũng như sự tôn thờ, ngưỡng vọng của các triều đại lịch sử đối với tiên tổ. Năm 2008, cụm di tích lịch sử Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử Văn hóa Quốc gia.
  
Hiểu một cách đơn giản nhất thì Kinh Dương Vương chính là ông nội của các Vua Hùng, còn theo sự dẫn giải từ các nguồn tài liệu, sử sách lưu lại cho thấy: Thần Nông lấy Nữ Long rồi sinh ra Viêm Đế. Viêm Đế sinh ra Đế Minh. Đế Minh đi tuần phương Nam lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục tài đức, thông minh hơn người được Đế Minh phong là Kinh Dương Vương cai quản phương Nam. Kinh Dương Vương thành lập nhà nước sơ khai đầu tiên và đặt quốc hiệu đất nước là Xích Quỷ (tên một vì sao sáng nhất của dải Ngân Hà). Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ rồi sinh ra 100 người con, con trai cả là Hùng Quốc Vương và các Vua Hùng hiện thờ tại Đền Hùng (Phú Thọ). Kinh Dương Vương tạ thế vào ngày 18 tháng Giêng tại Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (thuộc Bắc Ninh ngày nay). Về sau, nhân dân địa phương đã lấy ngày 18 tháng Giêng hàng năm để tổ chức lễ hội, bày tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên và đón tiếp nhân dân mọi miền tổ quốc về dâng hương, bái yết tri ân, tưởng niệm Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ. Lễ hội Kinh Dương Vương còn là dịp thể hiện truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, đồng thời phản ánh nét sinh hoạt, văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng Đồng bằng sông Hồng.

Tu bổ, tôn tạo để thu hút khách du lịch

Những năm qua, khu di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương đã được các cấp, các ngành và nhân dân địa phương quan tâm đầu tư tôn tạo tương đối khang trang, các hạng mục công trình cơ bản được khôi phục theo nguyên gốc. Tuy vậy, việc phát huy giá trị của khu di tích gắn với hoạt động du lịch vẫn còn rất hạn chế. Đa phần khách du lịch đến đây thời gian qua đều mang tính tự phát. Những yếu tố cần thiết và quan trọng để thu hút khách du lịch tại đây vẫn còn hết sức sơ sài: hoạt động lễ hội mới dừng lại ở quy mô nhỏ, diễn ra trong thời gian nhất định, các hoạt động phần hội còn khiêm tốn nên du khách rất khó tiếp cận; chưa có hướng dẫn viên; thiếu các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động du lịch như ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, lưu niệm…; tính gắn kết giữa khu di tích với các di tích lịch sử và điểm tham quan du lịch khác trên địa bàn chưa cao, nhất là chưa có sự phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành để xây dựng tour, tuyến du lịch; hiệu quả của công tác tuyên truyền còn yếu… Chính vì vậy, việc thu hút khách du lịch hiện còn nhiều khó khăn.

Để phát huy có hiệu quả hơn nữa giá trị khu di tích nhằm hướng tới mục tiêu phát triển du lịch chung của tỉnh, đồng thời đưa quần thể di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương trở thành một sản phẩm du lịch đặc thù của miền Quan họ, ngoài việc sớm khắc phục những hạn chế nói trên, vừa qua, Bắc Ninh đã công bố rộng rãi Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo phát huy giá trị lịch sử văn hóa quần thể di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương với quy mô hơn 36 ha có tổng mức đầu tư dự toán gần 500 tỷ đồng. Đây là Quy hoạch được lập ra trên cơ sở của những luận cứ khoa học và thực tiễn, tương xứng với tầm vóc, giá trị lịch sử của khu di tích. Mục tiêu là thể hiện sự tri ân với tổ tiên, giữ gìn di sản của dân tộc, đồng thời góp phần khai thác, phát huy các giá trị văn hóa lịch sử phục vụ phát triển du lịch.

Bằng trách nhiệm đối với tổ tiên dân tộc, các ngành, các cấp cùng nhân dân địa phương đã, đang và sẽ bảo vệ, phát huy giá trị lịch sử văn hóa của khu di tích. Hy vọng, trong tương lai không xa, quần thể di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương sẽ khang trang, bề thế tương xứng với tầm vóc lịch sử và công lao “khai sinh lập quốc” trở thành điểm đến của muôn dân đất Việt cũng như du khách quốc tế. 

Theo BBN

Tuesday, October 15, 2013

Giới thiệu cuốn sách: Danh nhân văn học Kinh Bắc

(08:42 | 27/11/2009)
 
Kinh Bắc là vùng đất có nền văn hoá lâu đời. Đây chính là nơi phát tích của Vương triều Lý, triều đại huy hoàng xây dựng nền độc lập, tự cường, mở ra nền văn minh Đại Việt. Vốn là miền Thượng của Lộ Bắc Giang thời Lý – Trần, trấn Kinh Bắc thời Lê, vùng đất Bắc Giang đã ghi sâu những chiến tích oai hùng qua những chặng đường lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước. Từ hiện thực cuộc sống ấy đã tạo nên nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ của vùng quê Kinh Bắc với những tác phẩm văn học có giá trị trường tồn.

Trong những sách xưa nay nói về Kinh Bắc, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, song để bảo tồn diện mạo văn học của một vùng quê nghìn năm văn hiến, soạn giả Duy Phi – Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Giang, đã cho ra đời cuốn sách “Danh nhân văn học Kinh Bắc”. Sách do Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc ấn hành năm 2001.
Duy Phi là một  nhà thơ, tác giả của một số tác phẩm thơ, tiểu thuyết như “Ngổn ngang trăm mối”, “Phút siêu lòng”, “Nụ hôn định mệnh” và còn là một soạn giả với nhiều tác phẩm được tuyển chọn, biên dịch có giá trị như: “Thơ văn đời Lý”, “Giai thoại văn học xứ Bắc”, “Đường thi tinh tuyển”...
Với gần 400 trang sách, “Danh nhân văn học Kinh Bắc” Duy Phi đã giới thiệu khái lược tác giả, tác phẩm thơ của 68 danh nhân Kinh Bắc tiêu biểu từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XX. Ngoài ra, sách còn in phụ trương tên các tác giả của thời kỳ này và thơ của Lê Thánh Tông.
Qua cuốn sách, có thể nói thời kỳ nào xứ Bắc cũng có những danh nhân văn học tiêu biểu. Thời Lý có thiền sư Vạn Hạnh với học vấn uyên bác, người đời gọi thơ ông là “sấm ký”. Thời Trần, xứ Bắc có Huyền Quang - người được coi là vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm về thi ca. Ngoài ra, thời kỳ này còn có Đào Sư Tích, Đoàn Xuân Lôi... với những bài thơ được hậu duệ lưu truyền. Thời Lê có Phó nguyên suý Tao đàn Thân Nhân Trung với câu nói nổi tiếng “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Thế kỷ XVI, xứ Bắc có Giáp Hải, người có tài văn chương, ứng đáp tinh nhanh làm sứ nhà Minh phải phục; Ngô Chi Lan nổi tiếng bởi tài làm thơ phú, từ khúc...
Thời kỳ rực rỡ nhất của văn học trung đại xứ Bắc phải kể đến Đoàn Thị Điểm với “Chinh phụ ngâm”, Nguyễn Gia Thiều với “Cung oán ngâm khúc”... Đó là những tác phẩm mang tính nhân văn cao cả, ảnh hưởng sâu sắc đến thi nhân nhiều thế hệ.
Nền văn học hiện đại Việt Nam đã có sự đóng góp đáng kể của một số nhà văn, nhà thơ xứ Bắc nổi tiếng. Đó là: Anh Thơ - nhà thơ xuất hiện trong phong trào thơ mới, nữ thi sĩ được nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn (1939), giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2001), có các tác phẩm tiêu biểu như: “Bức tranh quê”, “Chiều xuân”...; Hoàng Cầm – một nhà thơ tài hoa, có nhiều thi phẩm xuất sắc, đậm sắc thái quê hương Kinh Bắc như: “Bên kia sông Đuống”, “Lá diêu bông”... Ngoài ra, còn có Bàng Bá Lân, Nguyên Hồng... Những cây bút tiêu biểu của một vùng đất văn hiến ấy được giới thiệu trân trọng, tự hào của người cầm bút hậu thế.
Với nội dung bố cục chặt chẽ, cấu trúc theo trình tự thời gian, trong tập sách mỗi danh nhân đều có phần giới thiệu tiểu sử và những tác phẩm tiêu biểu của mình. Một số bài thơ được tác giả trình bày vừa bằng chữ Hán, vừa dịch sang tiếng Việt, giúp cho bạn đọc dễ đọc, dễ hiểu.
“Danh nhân văn học Kinh Bắc” được tác giả biên soạn công phu, góp phần giữ gìn vốn văn hoá dân tộc. Đây là một cuốn sách quý, rất có ý nghĩa trong việc phục vụ thầy cô giáo và học sinh, đặc biệt là các trường học trên đất Kinh Bắc tham khảo.
Thư­ viện tỉnh Bắc Giang trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hải Đăng