Friday, January 17, 2014

Liên hệ họ hàng với Ông Phan Tự Ngôn‏ - Đinh Văn Thắng

From: Tony Thang Dinh (todi_1999@yahoo.com)
Sent: Thu 1/16/14 6:59 PM
To: Thuc Dinh (dthuc@live.com)

Thắng mới vô Blog KYDV, thấy có mục thư mời các chi họ khác trong làng Dũng Vy. Thật là đáng mừng, để sau này còn biết thêm họ hàng xa gần. Thắng sẽ cố gắng thực hiện lại cuốn Gia Phả bên chi họ Đinh bên ngành của Bố Thắng (Đinh Văn Đột) rồi gửi cho Thức sau nhé.

Tiện đây Thắng cho Thức biết sự liên hệ của Thức và Cậu Ngôn để tránh chuyện hiểu lầm và tránh những chuyện không may xảy ra. Ông ngoại của Thức, và ông ngoại của Thắng và Bố Cậu Phan Tự Ngôn là anh em con chú con bác, tức là Bà Phan Thị Yêm (Mẹ của Thắng), bà Phan Thị Xin (Mẹ của Thức) và ông Phan Tự Ngôn là cháu Chú cháu Bác. Bố của Cậu Ngôn là bé nhất, do đó Thắng và Thức đều gọi ông Phan Tự Ngôn bằng "Cậu Ngôn".

Rất tiếc là Ông Ngôn không tự giới thiệu mình là ai để Thức biết đường xưng hô như Thức đã trình bày. Cậu Ngôn năm nay đã 78 tuổi ta. Thua Bố Mẹ của Thắng và Thức cả hơn một con giáp. Thắng chưa có dịp gặp Cậu Ngôn, nhưng được Mẹ kể về Cậu Ngôn nhiều lần, và cũng nói chuyện ĐT dăm ba lần. Thức có thể hỏi Dì Cuông để xác minh sự liên hệ họ hàng. Nhớ hỏi là Cậu Ngò (sau này đổi tên là Phan Tự Ngôn). Còn Gia phả họ Phan, Thắng đang yêu cầu Cậu Ngôn thành lập và hỏi thêm ý kiến của Mẹ Thắng và Mẹ Thức, vì hai bà còn minh mẫn lắm, còn Dì Chỉ thì đã yếu nhiều rồi, và không còn minh mẫn như Bà Yêm và Bà Xin nữa. 

Talk to you later.
Thắng
-----------

From: Thuc Dinh (dthuc@live.com)
Sent: Fri 1/17/14 10:43 AM
To: Thang Tony Dinh Van (todi_1999@yahoo.com)

Hi Thắng

OK. Khi nào xong gia phả thì cứ gởi cho Thức. Nếu các tộc họ trong làng đều có gia phả thì hay quá (có khi anh em đánh nhau vỡ đầu mà không biết).

Hồi nào tới giờ không nghe ai nói về ông Ngôn nên Thức không biết. 78 tuổi là đã già lắm mà vẫn còn thích "nói chuyện chơi". Cho Thức gởi lời vấn an sức khỏe. Hy vọng ông sẽ thực hiện gia phả Họ Phan để đồng hương có thể hiểu biết thêm về Dũng Vi và những liên quan họ hàng gần xa.

Bye. See U.
Thức Đ.

Thursday, January 16, 2014

Gia phả các tộc họ trong làng Dũng Vi

Thưa quý đồng hương

Qua ý kiến đóng góp của ông Phan Tự Ngôn về gia phả. Trong làng Dũng Vi còn có nhiều chi họ ngoài họ Đinh (ngay cả họ Đinh cũng có nhiều chi).

Nếu quý vị đồng hương Dũng Vi muốn phổ biến thêm những gia phả của các tộc họ trong làng, xin gởi về Blog KYDV qua Email dthuc@live.com - Blog KYDV sẽ rất hân hạnh phổ biến để quý đồng hương cùng rõ.

Blog KYDV

Tản mạn về “ngôi nhà chung” của làng

Thứ sáu, 27/12/2013 - 09:32
 
Tản mạn về “ngôi nhà chung” của làng
 
Đình làng giống như “ngôi nhà chung” của một cộng đồng làng xã mà ở đó lòng dân luôn được quy tụ, gắn kết. Bắc Ninh không chỉ tự hào vì được mệnh danh là “xứ sở của đình, đền, chùa, miếu” mà còn có những ngôi đình đẹp nổi tiếng, được dân gian ngợi ca, truyền tụng qua những câu ca dao:
 
Thứ Nhất là đình Đông Khang,
Thứ Nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm.…
 
Đình Đình Bảng (thị xã Từ Sơn) là một trong những ngôi đình đẹp nổi tiếng xứ Bắc.

Những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở làng hẳn khắc sâu hai âm thanh đặc biệt xúc động là tiếng chuông chùa và tiếng trống đình. Đình làng và chùa làng là biểu tượng của văn hóa làng xã gắn bó với người nông dân Việt. Nếu như vị trí tọa lạc của chùa làng không cần quá câu nệ, thường được xây dựng ở nơi thanh vắng, tĩnh mịch có thể là góc làng, ven làng hoặc giữa làng thì vị trí của đình làng nhất định phải được cất dựng trên thế đất phong thủy, nơi cao ráo, phong quang nhất làng. Bởi, trong tâm thức dân gian, ngôi đình là phúc phận của cả làng nên mới  có câu “Toét mắt là tại hướng đình/Cả làng toét mắt chứ mình em đâu”. Còn theo như nhà nghiên cứu văn hóa Lý Khắc Cung từng phân tích: “Đình làng là một tập hợp kiến trúc mở chứ không khép kín như chùa. Ở đình làng diễn ra mọi hoạt động chung của làng: từ hội họp, bàn bạc công việc, tổ chức hội hè, lễ tết, diễn xướng nghệ thuật cho đến thực thi lệ làng như: khao thọ, thu thuế, xét xử, phạt vạ… Tất cả công việc lớn nhỏ của làng đều được quyết định tại đình. Chính vì vậy, đình thường không có tường bao quanh. Từ bốn phương, tám hướng đều có thể đến với đình. Nội thất, ngoại thất của đình đều được trang trí nguy nga, độc đáo”.
 
Bộ cửa võng được chạm khắc tinh xảo làm nên sự vẻ vang của đình Diềm (xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh.)

Tìm hiểu lịch sử đình làng được biết, vốn xưa đình làng chỉ là đình trạm-nơi dừng chân của khách bộ hành, trong đó có cả vua, quan đi vi hành, tuần du và mọi người dân thường khác. Nhưng đến thời Lê Sơ (khoảng thế kỷ XV), nhân dân bắt đầu đưa các vị thần của làng vào thờ trong đình. Kể từ đó, đình làng vừa là nơi “hội sở thần thánh”, vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng xã. Đó là một ngôi nhà chung của cả làng, nơi quy tụ, gắn kết cộng đồng dân cư. Đình làng đã trở thành bản sắc văn hóa và là di sản vô giá của dân tộc. Có một nhà nghiên cứu về Mỹ học người nước ngoài đã nói: “Đến Việt Nam mà chưa thăm những ngôi đình làng là chưa biết gì về Việt Nam”. Như vậy, đình làng Việt không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc dân gian mà còn là nơi lưu dấu, chứa đựng hồn cốt dân tộc với những giá trị về lịch sử, văn hóa, truyền thuyết, huyền thoại, thần tích, sắc phong… 
  
Bắc Ninh vốn là trung tâm văn hóa của người Việt cổ, là vùng đất có bề dày văn hiến nên hầu hết các làng đều có đình. Ở Bắc Ninh, đình làng phát triển rực rỡ nhất vào thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVII-XVIII). Về tổng thể, đình làng ở Bắc Ninh cũng giống như bao ngôi đình làng Việt khác, vừa là nơi thờ các vị thần thánh là những người có công khai khẩn, mở đất lập làng, giữ nước, giúp dân trong mọi lĩnh vực, các anh hùng chống giặc ngoại xâm, các vị tổ nghề… vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân trong làng. Trong số hàng trăm ngôi đình trên địa bàn tỉnh thì đã có 237 ngôi đình được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa, trong đó, 67 di tích cấp Quốc gia và 170 di tích cấp tỉnh (tính đến ngày 1-9-2013). Đặc biệt, ở Bắc Ninh còn có những ngôi đình đẹp nổi tiếng, được dân gian ngợi ca: “Thứ Nhất là đình Đông Khang, thứ Nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm…”. Bà Đỗ Thị Thủy, Phó Giám đốc Ban Quản lý di tích tỉnh cho biết thêm, đình làng ở Bắc Ninh còn mang đặc điểm nổi bật về sự dung hội nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Nghĩa là, một ngôi đình không chỉ thờ một vị thần mà có thể thờ 5, 7 vị thần của làng. Hoặc cũng có những ngôi đình lớn với kiến trúc “tiền Thần hậu Phật”, bởi người được thờ vừa là Thần vừa là Phật mà Tứ Pháp ở vùng Dâu (Thuận Thành) là một minh chứng. Dấu tích vẫn còn ghi rõ trong những sắc phong là: “Đại Thánh Pháp Vân Phật/Đại Thánh Pháp Vũ Phật/Đại Thánh Pháp Lôi Phật/ Đại Thánh Pháp Điện Phật…” 
  
Giá trị, vai trò của ngôi đình làng Việt không thể phủ định và chắc chắn nó sẽ còn tồn tại mãi mãi với tư cách là một yếu tố văn hóa, lịch sử. Nhưng trước xu hướng đô thị hóa, trong đó có cả tác động của con người từ những công cuộc trùng tu, tôn tạo khiến không gian văn hóa đình làng đang dần bị biến dạng, mai một. Nói như vậy vì bây giờ ở nhiều địa phương, đình làng thường chỉ được xem như một di tích với vai trò là một nơi thờ tự các vị Thành Hoàng làng, còn chức năng quy tụ, gắn kết thành viên trong cộng đồng lại chưa được chú ý đến nhiều. Vì lẽ đó, muốn bảo tồn và phát huy giá trị đình làng mà chỉ tập trung vào việc xây dựng, trùng tu, tôn tạo về mặt kiến trúc vật chất thì chưa đủ, cần phải để cho ngôi đình thực sự sống trong không gian văn hóa làng xã, vừa là nơi thờ tự tôn nghiêm nhưng cũng là nơi sinh hoạt chung của người dân. Có như thế, đình làng mới được bảo tồn đúng nghĩa là ngôi nhà chung của làng. 
  
Bài, ảnh: Thuận Cẩm
 

Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm

12/04/2011

Tác giả : PGS.TS. Đinh Khắc Thuân (Chủ biên)
    Địa chỉ liên hệ: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Năm xuất bản: 2008

Tài liệu địa phương chí Hán Nôm là nguồn tài liệu phong phú phản ánh nhiều mặt về lịch sử, địa lý, danh nhân, danh tích, văn hóa, sản vật, con người và phong tục tập quán của từng địa phương. Nguồn tài liệu này đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều công trình nghiên cứu quan tâm sử dụng, song phần lớn vẫn chưa được dịch chú, chỉnh lý và công bố một cách có hệ thống.
 
Chương trình nghiên cứu và dịch thuật nhằm xã hội hóa tài liệu Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong nhiều năm qua đã hết sức chú trọng mảng tài liệu địa phương chí viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Viện đã tiến hành tổ chức sưu tập, chỉnh lý và dịch chú các tài liệu địa phương chí Hán Nôm thuộc các tỉnh phía Bắc: Bắc Ninh, Hải Dương, Sơn Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Bình…
 
Năm 2008, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã biên dịch và xuất bản cuốnĐịa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm” do PGS.TS. Đinh Khắc Thuân chủ biên. Số tài liệu địa phương chí Hán Nôm của các tỉnh khác sẽ được tiếp tục sưu tầm, biên dịch và chỉnh lý xuất bản trong những năm tới. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
 
 Thu An

Source VASS

Wednesday, January 15, 2014

Hình ảnh xưa: Di cư vào Nam 3 September 1954

Phi trường Gia Lâm

Operation Passage to Freedom, October 1954 đi tìm tự do



Hình chụp vào tháng 9 năm 1954 với một số người Bắc di cư trên tàu USS Bayfield khi tàu vừa cặp bến Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, tàu USS Bayfield là một trong những vận-chuyển hạm của Hải Quân Hoa Kỳ được giao phó nhiệm vụ chở người tị nạn từ Bắc vào Nam. (HÌNH ẢNH: Trung Tâm Quân Sử Hải Quân Hoa Kỳ).

Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ. Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đua Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư. (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).

Mời xem tiếp tại: Bald Eagle Blog "Từ Hà Nội đến Sài Gòn 1954-1975"