Monday, January 13, 2014

Giếng cổ vùng Kinh Bắc

Thứ sáu, 20/12/2013 - 09:19
 
Giếng cổ vùng Kinh Bắc
 
Làng quê Việt xưa luôn gắn liền với hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình. Trong đó thì giếng nước gần gũi với cuộc sống thường nhật của người dân hơn cả. Giữa nhịp sống hiện đại ngày nay, những chiếc giếng cổ vẫn đang góp cho đời những dòng nước mát ngọt và là bộ phận không thể thiếu tạo nên những giá trị độc đáo rất riêng trong đời sống văn hóa vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc.
 
Những mạch nguồn trong mát 
  
Chưa có ai thống kê tại các làng quê Bắc Ninh hiện còn bao nhiêu giếng cổ, giếng nào là cổ nhất, độc đáo nhất... nhưng trong số đó nổi tiếng hơn cả có lẽ là giếng Ngọc tại thôn Viêm Xá, xã Hòa Long (thành phố Bắc Ninh). Giếng đã có tuổi đời hàng trăm năm gắn liền với di tích đền Cùng thờ hai nàng công chúa Tiên Dung và Thủy Tiên - con vua Lý Thánh Tông.
 
Giếng cổ ở chùa Dạm (xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) gắn với sự tích bà Tấm.
 
Miệng giếng Ngọc hình bán nguyệt nhưng lòng giếng hình vuông. Kiến trúc giếng khá độc đáo gồm 11 bậc gạch, 4 bậc đá và 1 bậc gỗ lim ở sát mép nước. Dưới lòng giếng là lớp đá ong tự nhiên sâu chừng 10m. Do nước giếng được hình thành từ những mạch nước ngầm chảy ra từ núi đá Kim Lĩnh lại được lắng qua hàng chục lớp đá ong tự nhiên nên rất trong. Người làng Diềm luôn tâm niệm nhờ uống nước giếng Ngọc mới có được giọng hát Quan họ “vang, rền, nền, nảy” trứ danh bậc nhất xứ Kinh Bắc. Đa số các hộ ngày nay vẫn giữ thói quen múc nước giếng để pha trà vì cho rằng trà pha xong bao giờ cũng thơm, xanh, ngọt hơn hẳn khi pha với thứ nước khác. Bởi thế mà dân làng vẫn truyền nhau câu ca:
 
“Nước giếng Ngọc, trà Tân Cương
Như chàng Kim Trọng đẹp duyên Thúy Kiều”. 
  
Một giếng cổ nổi tiếng khác của Bắc Ninh là giếng Gióng ở thôn Đại Bái, xã Đại Bái (huyện Gia Bình). Tương truyền khi thánh Gióng đánh giặc Ân đi qua đây đã dừng lại để uống nước. Xung quanh giếng có một vết lõm vừa bàn chân người được cho là bàn chân của Thánh Gióng để lại. Ngoài ra còn nhiều vết lỗ chỗ nhỏ ly ty khác vẫn được truyền tụng là vết nước trầu bắn do Thánh Gióng ăn trầu, nhả bã xuống. Đặc biệt, nguồn nước ở đây lúc nào cũng có màu đỏ như màu bã trầu nên người dân thường gọi là nước trầu. Vào dịp lễ hội (mùng 8-4 âm lịch), dân làng lại trang trọng tổ chức lễ rước nước. Sáng sớm, người ta múc đầy một chóe nước từ giếng lên đặt vào kiệu khiêng rước về đình làng, thờ cúng liên tục trong ba ngày rồi ban cho người dân. Không chỉ đơn giản là nguồn nước sinh hoạt, giếng Gióng đã trở thành một phần trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây, gửi gắm niềm tin và tấm lòng hướng về tổ tiên, cội nguồn. 
 
Giữ hồn giếng cổ 
  
Các giếng cổ ở Bắc Ninh nằm rải rác tại các làng quê. Về cơ bản giếng có 3 kiểu dáng: Hình tròn (chiếm đa số), hình vuông hoặc trên tròn dưới vuông. Chất liệu để xây giếng chủ yếu là gạch, đá. Một số giếng có khung gỗ vuông (bằng lim) ở dưới thành gạch. Khung gỗ này giữ vai trò quan trọng bảo đảm tuổi thọ của giếng, giữ cho thành giếng ổn định lâu dài không bị sụt lún. Đặc biệt, nước ở các giếng này hầu hết đều rất trong và mát dù đã tồn tại qua hàng trăm năm.
 
Giếng Ngọc (thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh) nước vẫn trong xanh dù đã hàng trăm năm tuổi.

Ngày nay, có lẽ hình ảnh người dân múc từng gầu nước giếng làng gánh về nhà dùng thật hiếm gặp bởi nước máy, nước giếng khoan phổ biến. Nhiều giếng cổ vì thế bị xuống cấp, bị lãng quên. Nhưng giếng Ngọc và một số giếng cổ khác ở Bắc Ninh vẫn đang tồn tại như một mạch nguồn nhắc nhở người dân về bề dày lịch sử, văn hóa quê hương. Ông Nguyễn Văn Thư, một  bậc cao niên ở làng Viêm Xá cho biết: “Khi tôi sinh ra, giếng Ngọc đã có rồi. Nghe ông bà, cha mẹ kể lại thì giếng này đã có từ đời cụ kỵ. Tôi nhớ lúc còn bé vẫn theo mẹ ra giếng gánh nước về nhà dùng hàng ngày. Cả làng cùng tề tựu trò chuyện, ca hát, trẻ con đùa nghịch, trai gái hò hẹn… Giờ đã có nước máy nhưng dân làng vẫn lấy nước ở đây về pha trà, nấu cơm như một thói quen”. 
 
Những chiếc giếng cổ đã đi vào tiềm thức của biết bao người dân mỗi làng quê. Trong đó có những sự tích, những câu chuyện kể và cả niềm tin vào những điều thiêng liêng. Chẳng thế mà nhiều nơi người ta lập cả một ngôi miếu nhỏ gần giếng để thờ thần giếng hay coi giếng như một vật phong thủy mang lại điềm lành cho làng… Du khách thập phương đến những nơi này cũng không ngần ngại múc một cốc nước ngọt lành từ giếng lên uống với ước mong về những điều tốt đẹp. 
 
Những chiếc giếng cổ đã và đang song hành cùng lịch sử, văn hóa và đời sống của người dân xứ Kinh Bắc. Cuộc sống có hiện đại, tiện dụng đến đâu thì giếng làng luôn là một mảnh ghép không thể thiếu của hồn quê và sẽ trường tồn mãi với thời gian.
 
Thương Huyền
 

Tuesday, January 7, 2014

Quá trình thay đổi tên gọi đơn vị hành chính, địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh (Tiếp theo kỳ trước)

Thứ hai, 22/03/2010 - 13:47
 
Quá trình thay đổi tên gọi đơn vị hành chính, địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh
 
(Tiếp theo kỳ trước)

Huyện Tiên Du

Theo “Đại việt sử ký toàn thư”, tên huyện Tiên Du có từ thời Trần (thế kỷ XIII). Thời thuộc Minh (1414 - 1427) huyện Tiên Du thuộc châu Vũ Ninh. Bắt đầu từ thời Lê (1428), huyện Tiên Du thuộc phủ Từ Sơn. Theo sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, thì đầu thế kỷ XV, huyện Tiên Du có 52 xã. Đến thời Lê Thánh Tông (1490), huyện có 52 xã. Thời Gia Long (1802 – 1819) huyện có  9 tổng với 52 xã:

1. Tổng Phù Đổng có 3 xã: Phù Đổng, Phù Ninh, Đổng Xuyên.
2. Tổng Dũng Vi có 3 xã: Dũng Vi, Trung Mầu, Thịnh Lân.
3. Tổng Đại Vi có 4 xã: Đại Vi, Đại Vi Thượng, Đại Vi Trung, Dương Húc.
4. Tổng Đông Sơn có 5 xã: Đông Sơn, Đại Sơn, Đồng Lạng, Long Khám, Dưỡng Mông.
5. Tổng Thụ Triền có 7 xã thôn: Thôn Triền thuộc xã Thụ Triền, Thụ Triền (gồm 2 thôn Phù Lập Thượng và Phù Lập Trung), Phật Tích, Cổ Miếu, Cao Đường, Vĩnh Phú, Trùng Minh.
6. Tổng Nội Duệ có 10 xã thôn: Nội Duệ, thôn Đông thuộc xã Nội Duệ, thôn Nam thuộc xã Nội Duệ, thôn Khánh thuộc xã Nội Duệ, Hoài Bão (gồm 2 thôn Trung và Thị), Lũng Giang, Bái Uyên.
7. Tổng Khắc Niệm có 8 xã: Khắc Niệm Thượng, Khắc Niệm Hạ, Hiên Ngang, Bồ Sơn, Xuân Ổ, Dương Ổ, Vân Khám, Lai Đình.
8. Tổng Chi Nê có 5 xã: Chi Nê, Chi Nê Nội, Nghĩa Lộ, Tư Vi.
9. Tổng Nội Viên có 7 xã: Nội Viên, An Động, Hoa Hội,  Hộ Vệ, Hương Vân, Nghi Vệ
Các xã:  Nguyễn Xá, Phù Đổng, Văn Trinh năm 1807 phiêu tán, năm 1808 phục hồi.

Đến năm Đồng Khánh thứ nhất (1886), huyện có 9 tổng với 56 xã, thôn. Đó là các tổng:
1. Tổng Phù Đổng có 4 xã: Phù Đổng, Phù Dực, Đồng Viên, Đổng Xuyên.
2. Tổng Dũng Vi có 3 xã: Dũng Vi, Trung Mầu, Thịnh Lân.
3. Tổng Đại Vi có 4 xã: Đại Vi, Đại Vi Thượng, Đại Vi Trung, Dương Húc.
4. Tổng Đông Sơn có 7 xã: Đông Sơn, Đại Sơn, Đồng Lạng, Long Khám, Dưỡng Mông, Văn Trinh, Đại Tảo.
5. Tổng Thụ Phúc có 8 xã, thôn: Thôn Phúc thuộc xã Thụ Phúc (tên cũ là Thụ Triền, năm 1843 đổi là Thụ Phúc), thôn Phù Lập Trung và thôn Phù Lập Thượng thuộc xã Thụ Phúc, Trùng Minh, Phật Tích, Cổ Miếu, Tam Bảo, Cao Đường, Vĩnh Phú.
6. Tổng Nội Duệ có 10 xã, thôn: Nội Duệ, Nội Duệ Đông, Nội Duệ Nam, Nội Duệ Khánh, thôn Trung và thôn Thị xã Hoài Bão, Lũng Sơn, Lũng Giang, Bái Uyên, Hồi Bão, thôn Thượng xã Hoài Bão.
7. Tổng Khắc Niệm có 8 xã: Khắc Niệm Thượng, Khắc Niệm Hạ, Hiên Đường, Bồ Sơn, Xuân Ổ, Dương Ổ, Vân Khám, Hoà Đình.
8, Tổng Chi Nê có 5 xã: Chi Nê, Chi Nê Nội, Tử Nê, Nghĩa Chỉ, Tư Vi.
9. Tổng Nội Viên có 7 xã: Nội Viên, An Động, Xuân Hội (trước là Hoa Hội, năm 1841 đổi là Xuân Hội), Hộ Vệ, Hương Vân, Nghi Vệ, Tiên Xá (trước là Nguyễn Xá, năm 1852 đổi là Tiên Xá).

Đầu thế kỷ XX, tổng Khắc Niệm được chuyển về huyện Võ Giàng. Sau đó, một thời gian, tổng Khắc Niệm lại được chuyển trả lại cho Tiên Du.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi cấp tổng bị bãi bỏ, đơn vị hành chính cấp xã cũ được gữ nguyên và trực thuộc huyện Tiên Du.

Thực hiện Sắc lệnh số 201 ngày 15 tháng 10 năm 1946 của Chủ tịch Chính phủ,  hai xã Vân Khám và Hiên Ngang thuộc huyện Võ Giàng nay sáp nhập vào huyện Tiên Du.

Năm 1948, các  xã được thành lập trên cơ sở một số làng sáp nhập lại.

Thực hiện NQ của QH khóa II kỳ họp thứ 2  ngày 20 tháng 4 năm 1961, xã Phù Đổng và xã Trung Hưng (sau đổi là Trung Mầu) được chuyển về huyện Gia Lâm (TP Hà Nội).

Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 25/QĐ, nhập 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn thành một huyện, lấy tên là huyện Tiên Sơn. Cũng theo Quyết định này, 2 xã Phú Lâm và Tương Giang của huyện Yên Phong được chuyển về huyện Tiên Sơn và chuyển 2 xã Đông Thọ và Văn Môn của huyện Từ Sơn về huyện Yên Phong (nay là xã Tương Giang thuộc thị xã Từ Sơn).

Ngày 4 tháng 6 năm 1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 84-CP hợp nhất huyện Tiên Sơn và huyện Yên Phong thành một huyện lấy tên là huyện Tiên Phong. Nhưng đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 17-CP phê chuẩn đề nghị của UBND tỉnh Hà Bắc thôi không hợp nhất huyện Tiên Sơn với huyện Yên Phong.

Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT về việc điều chỉnh địa giới các huyện Tiên Sơn, Quế Võ và thị xã Bắc Ninh. Theo đó, xã Võ Cường thuộc huyện Tiên Sơn được chuyển về thị xã Bắc Ninh.

Sau khi điều chỉnh địa giới, huyện Tiên Sơn có 26 xã và 1 thị trấn. Đó là các xã: Khắc Niệm, Hạp Lĩnh, Lạc Vệ, Tân Chi, Phú Lâm, Vân Tương, Liên Bão, Hiên Vân, Việt Đoàn, Minh Đạo, Cảnh Hưng, Nội Duệ, Tương Giang, Hoàn Sơn, Phật Tích, Tri Phương, Tam Sơn, Đồng Nguyên, Tân Hồng, Đại Đồng, Hương Mạc, Phù Khê, Châu Khê, Đồng Quang, Đình Bảng, Phù Chẩn và thị trấn Từ Sơn.

Ngày 10 tháng 12 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 101/1998/NĐ-CP về việc thành lập thị trấn Lim, huyện lỵ huyện Tiên Sơn  trên cơ sở toàn bộ 488 ha diện tích đất tự nhiên và 9.778 nhân khẩu của xã Vân Tương.

Ngày 11 tháng 8 năm 1999 Chính phủ ra Nghị định số 68/1999/NĐ – CP tách huyện Tiên Sơn thành 2 huyện, lấy tên là huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn. Tại thời điểm đó, huyện Tiên Du có 10.630,03 ha diện tích đất tự nhiên và 125.157 nhân khẩu, có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 15 xã và 1 thị trấn. Đó là các xã: Khắc Niệm, Hạp Lĩnh, Lạc Vệ, Tân Chi, Phú Lâm, Liên Bão, Hiên Vân, Việt Đoàn, Minh Đạo, Cảnh Hưng, Nội Duệ, Hoàn Sơn, Phật Tích, Tri Phương, Đại Đồng và thị trấn Lim.

Địa giới hành chính của huyện Tiên Du: Đông giáp huyện Quế Võ, Tây giáp huyện Từ Sơn, Nam giáp huyện Thuận Thành và thành phố Hà Nội, Bắc giáp huyện Yên Phong và thành phố Bắc Ninh.

Thực hiện Nghị định số 60/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Yên Phong, huyện Quế Võ, huyện Tiên Du để mở rộng thành phố Bắc Ninh, từ ngày 24 tháng 4 năm 2007, toàn bộ diện tích đất tự nhiên và nhân khẩu của xã Khắc Niệm và xã Hạp Lĩnh (gồm 1.240,45 ha diện tích đất tự nhiên và 14.783 nhân khẩu) được chuyển về thành phố Bắc Ninh.

Đến thời điểm đó, huyện Tiên Du còn lại 9.620,71 ha diện tích đất tự nhiên và 119.721 nhân khẩu; có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các xã: Phú Lâm, Nội Duệ, Liên Bão, Lạc Vệ, Hiên Vân, Việt Đoàn, Hoàn Sơn, Phật Tích, Đại Đồng, Minh Đạo, Tri Phương, Cảnh Hưng, Tân Tri và thị trấn Lim.

Từ năm 1832 trở về trước, huyện lỵ huyện Tiên Du đóng tại làng Đông Sơn. Năm 1833, chuyển huyện lỵ về thôn Trung và thôn Thị xã Hoài Bão, chung quanh đắp tường đất, mỗi chiều dài 12 trượng, trồng tre làm lũy, mặt trước mở một cửa hướng Nam. Năm 1963 khi hợp nhất 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn, huyện lỵ đóng tại chân núi Lim xã Vân Tương. Hiện nay, huyện lỵ vẫn đóng ở chỗ cũ (nay là thị trấn Lim).

Đến ngày 01 tháng 4 năm 2009, huyện Tiên Du có 124.497 nhân khẩu, trong đó có 61.498 nam, 62.999 nữ.

Nguyễn Quang khải
(Còn nữa)