Thursday, November 7, 2013

Se Chỉ Luồn Kim - Dân ca Quan họ Bắc Ninh



andy82andy82
Uploaded on Dec 20, 2010

Cổ vật Bắc Ninh - Dấu ấn chiều sâu văn hóa (07/01/2010)

Với những đá, đồng, gốm, sứ, gỗ, kẽm, giấy… mang trên mình dấu ấn của thời gian, 1.200 hiện vật tại cuộc trưng bày “Cổ vật tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh” lần thứ Nhất diễn ra tại Bảo tàng tỉnh cuối năm 2009 đã đem đến cho người xem nhiều cảm nhận khác nhau về chiều sâu văn hoá Kinh Bắc.

Ai đó từng nói, cổ vật là một phần của lịch sử và văn hoá. Nhưng không phải ai cũng nhận thấy rõ giá trị đích thực của nó vì đồ cổ thường là các mảnh vỡ, dị tật, vẻ ngoài xấu xí, xù xì. Ví như, có 2 mảnh khuôn đúc trống đồng được các nhà khảo cổ phát hiện ở Luy Lâu, nhìn vẻ ngoài chẳng khác gì hai cục đất nung nhỏ con, nham nhở nhưng đã có tới 4 nhà khảo cổ đầu ngành của đất nước mang về trao tận tay cho Bảo tàng tỉnh. Bởi đó chính là một báu vật minh chứng thuyết phục rằng Trống Đồng được đúc tại Việt Nam, của Việt Nam và do người Việt Nam đúc ra chứ không phải ở bất cứ một quốc gia nào khác. Những cổ vật thể hiện rõ nhất nét đặc trưng cơ bản của văn hoá vùng Kinh Bắc chính là hơn 150 hiện vật đồ đá tìm thấy ở lòng sông Cầu, đồ gốm Hán tập trung nhiều ở vùng Luy Lâu (Thuận Thành), bộ sưu tập tiền cổ từ triều Đinh cho đến bây giờ của nhà sưu tầm và nghiên cứu Nguyễn Văn Thạo hay như đồ sứ từ thời phong kiến Trung Quốc cũng được các nhà sưu tập, nghiên cứu tìm thấy nhiều ở Bắc Ninh. Đặc biệt, chiếc chuông đồng ở chùa Ngũ Hộ, xã Kim Chân (TP Bắc Ninh), trước năm 1945 bị đưa sang và lưu lạc tại Nhật Bản, năm 1978, Hội hữu nghị Nhật Bản - Việt Nam đã tổ chức vận động trao trả lại cho Việt Nam. Qua đó, chứng tỏ cổ vật không chỉ thấm đẫm giá trị lịch sử, văn hoá và mỹ thuật mà còn thể hiện sâu sắc tình hữu nghị ngoại giao hai nước, mang ý nghĩa chính trị cao. Hầu hết cổ vật có nguồn gốc, xuất xứ từ kho lưu trữ của Bảo tàng Bắc Ninh được sưu tầm từ những thập kỷ 60 của thế kỷ XX đến nay trên địa bàn Bắc Ninh – Kinh Bắc và của các nhà sưu tầm, nghiên cứu cổ vật Kinh Bắc. Ngoài cổ vật của Việt Nam, phòng trưng bày còn có những cổ vật có nguồn gốc từ Trung Hoa, Nhật Bản... trong trường kỳ lịch sử giao lưu văn hóa giữa các dân tộc đã được giữ gìn, bảo tồn đến ngày nay.

Trong số hàng nghìn lượt khách đến bảo tàng tỉnh để tham quan, chiêm ngưỡng cổ vật, một nhiếp ảnh gia người Pháp – ông Jobet đã chia sẻ: Tình cờ biết ở Bắc Ninh có cuộc Trưng bày cổ vật qua một chương trình truyền hình, ngay sau đó tôi đề nghị vợ cùng tìm về đây để tham quan, chiêm ngưỡng. Tôi đặc biệt thích vẻ đẹp cổ kính, rêu phong của các ngôi đình và đền chùa Việt Nam. Còn với cổ vật, vốn tự thân nó đã mang vẻ đẹp hiếm và độc đáo. Đến đây, tôi mong muốn qua các cổ vật tìm hiểu về vẻ đẹp cũng như quan điểm mỹ thuật của người Việt  trong quá khứ.
 


Bộ sưu tập Lọ Đầm xoè bằng đồng,  thế kỷ I-III.

Để tổ chức thành công cuộc trưng bày ý nghĩa này, Bảo tàng tỉnh – đơn vị thường trực được giao phụ trách đã có phương pháp triển khai khá hiệu quả. Vì khi chuẩn bị cho trưng bày, Hội Sưu tầm và nghiên cứu cổ vật chưa thành lập nên công tác vận động các nhà sưu tầm được đặt lên hàng đầu. Ngoài lợi thế về phương tiện trưng bày khá đầy đủ và chuyên nghiệp của Bảo tàng tỉnh, các nhà sưu tầm đều rất nhiệt tình với hoạt động này cũng là thuận lợi để hiện vật tại cuộc trưng bày thêm phong phú. Công tác vận động các nhà sưu tầm tham gia sự kiện này cũng chính là kinh nghiệm để Bảo tàng Bắc Ninh tiếp tục áp dụng trong những lần sau. Cùng với cán bộ Bảo tàng tỉnh, một số người có tiếng trong giới sưu tầm, nghiên cứu cổ vật trong tỉnh đã đến tận nhà các nhà sưu tầm để giám định đồng thời lập hồ sơ khoa học cho cổ vật, một cách phân loại nhằm tránh sự trùng lặp khi trưng bày. Và cũng là một cách để hoá giải điều lo lắng nhất của BTC về sự bảo đảm an toàn cho cổ vật trong quá trình diễn ra cuộc trưng bày. Ban đầu, đây cũng là vấn đề đáng ngại nhất bởi nước ta chưa có bảo hiểm cổ vật, trong khi đó nhiều hiện vật có giá trị kinh tế cao, song với sự nhiệt tình, vô tư của các nhà sưu tầm và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ, nhân viên, mọi việc đã diễn ra suôn sẻ với độ an toàn tuyệt đối. Lần đầu tiên tổ chức trưng bày quy mô lớn với nhiều cổ vật có giá trị văn hoá, lịch sử cũng như kinh tế, Bảo tàng tỉnh đã chuẩn bị chu đáo công tác an ninh: Gắn 2 camera quan sát, 2 vòng bảo vệ với lực lượng chuyên nghiệp và cán bộ, nhân viên Bảo tàng trực 24/24 giờ.

5 ngày là thời gian ít so với số lượng và giá trị các cổ vật trong cuộc trưng bày lần này. Những người làm công tác tổ chức cũng bày tỏ sự tiếc nuối khi chưa thực hiện việc quảng bá, tuyên truyền sớm để đông đảo người dân tìm đến. Vì lẽ đó, mặc dù có hàng nghìn lượt người đến xem song vẫn còn rất nhiều người không đến được với cuộc trưng bày. Dẫu vậy, có thể nói, cuộc Trưng bày cổ vật tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh là dịp để người dân tìm lại quá khứ, hiểu rõ hơn về chiều dài văn hoá lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung và vùng Kinh Bắc nói riêng. Đặc biệt, những hiện vật ấy còn cho thấy sự tài hoa, khéo léo cùng với sức sáng tạo phi thường của cha ông xuyên suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc từ văn hoá Đông Sơn, Phùng Nguyên đến nay, để mỗi người dân Bắc Ninh – Kinh Bắc thoả sức tự hào với truyền thống văn hiến của quê hương.

Sân chơi cho người yêu cổ vật

Ông Nguyễn Việt Dũng, 42 tuổi, đường Thiên Đức, Vệ An, thành phố Bắc Ninh

Tôi yêu thích sưu tầm từ nhỏ nhưng phải từ 10 năm nay mới có điều kiện thực hiện niềm đam mê ấy. Công việc chính là kinh doanh nên tôi đi nhiều nơi, do đó thu thập được một số lượng khá lớn cổ vật. Hiện tại tôi sở hữu khoảng 700 hiện vật, trong đó tôi đặc biệt đam mê gốm thời Lý - Trần, nếu tính riêng Thạp hai triều đại này tôi có 10 chiếc lớn, nhỏ. Tôi nghĩ việc ra đời của Hội sưu tầm và nghiên cứu cổ vật Kinh Bắc sẽ giúp những người yêu đồ cổ như tôi có một sân chơi để giao lưu đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu cổ vật.

Tôi tâm đắc bộ sưu tập tiền từ thời Đinh đến nay

Ông Nguyễn Văn Thạo 44 tuổi, phố Nguyễn Huy Tưởng, Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh

Hồi nhỏ khi còn đi học tích luỹ bút viết các loại, tôi đã nghĩ mình sẽ theo đến cùng niềm đam mê sưu tầm. Giờ đây, sau hơn 10 năm đi khắp nơi và thu thập tất cả những gì tôi nghĩ là cổ, quý, tôi càng củng cố “tình yêu” của mình với cổ vật. Từ Thái Nguyên cho đến Bắc Kạn, Lạng Sơn... tôi đã “lượm lặt” cho mình được hàng trăm cổ vật, trong đó tôi đặc biệt tâm đắc bộ sưu tập tiền đầy đủ các triều đại từ nhà Đinh đến nay. Vì yêu thích cổ vật nên tôi tự tìm tòi trong sách báo và học hỏi các nhà nghiên cứu để hiểu nhiều, hiểu sâu và đánh giá chính xác giá trị của cổ vật.

Chơi đồ cổ là tìm về vẻ đẹp của mỹ thuật quá khứ

Ông Dương Minh Chính, đường Nguyễn Gia Thiều, TP Bắc Ninh.

Đối với tôi, chơi đồ cổ là tìm về vẻ đẹp của mỹ thuật trong quá khứ và sưu tập đồ cổ chính là sưu tập mỹ thuật cổ. Sau 20 năm sưu tầm đủ loại đồ cổ như: đồ đá, đồng, đất nung, sứ, gốm… dần tôi thấy say mê đồ đồng và đồ đá hơn cả bởi nó không những có giá trị lịch sử về thời gian mà còn mang vẻ đẹp hấp dẫn đặc biệt, hiếm và độc đáo. Hiện tôi đang sở hữu hơn 200 hiện vật đồ đá và đó là thế mạnh của tôi. Việc sưu tầm và nghiên cứu của tôi có nhiều thuận lợi vì vợ tôi là một người rất gần gũi, thích đồ cổ và có trình độ chuyên môn về ngành bảo tồn bảo tàng. Việt Nam có một nền văn minh đồ đá cực kỳ rực rỡ nhưng số người thích sưu tầm và nghiên cứu về đồ đá ở nước ta còn hạn chế bởi dòng hiện vật này khó chứng minh được thời gian, niên đại. Vì thế, ấp ủ lớn nhất của tôi là cố gắng làm sao xác định được địa chỉ - nơi phát hiện ra đồ vật, từ đó tôi sẽ tìm hiểu độ phong hóa, bề mặt thời gian và liệt kê đầy đủ lý lịch quá khứ của hiện vật để chứng minh cho mọi người, nhất là các nhà khoa học khảo cổ đầu ngành trong nước đồng thuận, công nhận giá trị các cổ vật mà tôi đang có.

Tuesday, November 5, 2013

Lễ hội làng đúc đồng Đại Bái - Bắc Ninh



Trần Phạm Quang Phúc
Uploaded on Jul 30, 2011
 

Đôi Bờ Ngũ Huyện Khê (Hà Bắc) - Trần Quốc Vượng

 Bắc Ninh cũ, xứ Kinh Bắc xưa, là cả một kho tàng di tích khảo cổ, di tích lịch sử, huyền tích, huyền thoại, thần thoại tố, những hội hè xuân - thu, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ thức cổ truyền, những câu nói văn vẻ, những lời ca, điệu hát, những tên đất, tên làng cổ kính… hứa hẹn những vụ gặt bội thu của nhiều ngành nghiên cứu đất nước, con người, xã hội Việt Nam nói chung, xứ Bắc nói riêng, mà gần 2 tháng công tác ở Yên Phong, Tiêu Sơn, Quế Võ, 2 đoàn khảo cổ học và dân tộc học Khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, với sự giúp đỡ và phối hợp đầy tình thân ái của Ty Văn hóa Hà Bắc cùng một số cán bộ Tổ Văn học dân gian Viện Văn học, đã khơi ra ngồn ngộn vấn đề…
Trong thông báo ngắn này, chúng tôi không thể nói hết những gì chúng tôi - cán bộ, sinh viên của mấy cơ quan nói trên, cùng làm, cùng theo dõi, cùng phát hiện theo cùng một phương pháp liên ngành. Hãy đợi dịp khác, hãy hẹn nhau ở Hội nghị học thuật sắp tới do Hà Bắc chủ trì.
Ở đây chúng tôi chỉ có thể nói về một tuyến đường, một lộ trình khoa học mà anh em Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội cùng anh em Ty Văn hóa Hà Bắc sẽ còn trở đi trở lại trong năm tới và mấy năm sau này nữa: Hành trình đi sâu vào quá khứ xứ Bắc dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê.
Nước non xứ Bắc có sức hấp dẫn lạ lùng! Miền Thiên Thai ấy, quê hương ông Trạng khai khoa đất Việt Lê Văn Thịnh - Trạng Cú theo tên gọi dân gian - đất đai bộ Vũ Ninh thời cổ, Gia Lương ngày nay, là cả một bí mật mới bắt đầu khám phá. Một khu di chỉ Lãng Ngâm chắc chắn thuộc văn hóa Đông Sơn, với một khu mộ địa đầy ắp đồ đồng ở chân núi Cả thuộc dãy núi Đông Cứu, đan xen đầy mộ gạch cổ Đông Hán - Lục Triều, khoét sâu vào lòng núi, một khu cư trú Vườn Chiều trải rộng hàng vạn mét vuông trong dải đất phù sa trên bãi trong đê sông Đuống ken dày đặc "gốm Đường Cồ", "Gò Mun muộn" và kha khá gốm lạ, có thể là Chiến Quốc… Gần đó, cũng trong phạm vi Gia Lương, là khu mộ hình thuyền. Bên cạnh thành của Chiêu Nương, một nữ tướng của hai Bà Trưng mới phát hiện, còn hứa hẹn lắm điều hay. Quanh núi, trong đồng là rất nhiều đền đài nam nữ tướng trong phong trào hai Bà Trưng với địa danh Lãng Ngâm, Phá Lãng, Phù Lãng, Tân Lãng, Lãng Khê, Lãng Sơn, Vân Lãng… khiến Lê Quý Đôn ngày trước ngờ ngợ rằng đó là vùng Lãng Bạc của buổi đầu Công Nguyên.
Có một thành Dền và một làng Dền tại Quế Võ bên đường 18, nơi ấy nhiều "mộ Hán"; có thành Dền ở kề Đông Cứu (Gia Lương); có một thành Dềnbến Dền ở Thụ Tiền, xã Cảnh Hưng, bờ sông Đuống, từ núi Phật Tích (Tiên Sơn) nhìn ra, có một làng Dền ở bờ sông Thương, có 1 làng Diềm (Viêm Xá) ở cạnh Quả Cảm sát thị xã Bắc Giang; Lũng Triều và thành Luy Lâu ở Thuận Thành… Và Trung Màu (Tiên Du cũ) nay thuộc Gia Lâm cũng có thành Dền, gần đó có làng Viềng (Tiên Viềng) của Từ Sơn. Cộng với thành Dền ở Yên Lãng cả Gò Chiền ở Lâm Thao (Vĩnh Phúc), Gò Chiền Vậy ở Hoài Đức, Thành Dền ở Quốc Oai, di chỉ Gò Đồng Dền Hoa Lư (Ninh Bình), cầu Dền Thăng Long cổ (Hà Nội)… Những địa danh ấy nói gì?
Toàn những nơi trồng rau dền theo lối minh giải của từ nguyên học dân gian? Hay Dền, Chiền, Triều, Viềng… đều là "đồng âm dị dịch" của một từ gốc Tày - Thái cổ, như Chiềng của Mường - Thái ngay gần đây, là khu vực trung tâm, nơi ở của thủ lĩnh Việt, của lang cun Mường, hay phìa tạo Thái, có một công trình phòng vệ, một cái thành nào đó…? Nhà khảo cổ học lưu ý rằng: nơi nào mang địa danh ấy là một di tích khảo cổ quan trọng: một di chỉ đồ đồng - sắt lớn, một cái thành cổ…
Nhưng ta hãy trở lại với Tiên Viềng! Qua thị trấn Từ Sơn 2km thì đến Viềng (Vĩnh Kiều), nằm chạy dài, thẳng gốc với quốc lộ 1 như là một dải lũy thành. Rẽ bên trái ta đi dọc theo bờ sông Tiêu Tương cũ của câu truyện Trương Chi, nay chỉ còn là những dải ao hồ hay những dọc ruộng sâu.
Trên cánh đồng Bãi Tự và cánh đồng Cửa Phủ là khu Lò Gạch. Ở đó, chúng tôi tìm thấy một di tích khảo cổ quan trọng. Tầng văn hóa xuất lộ, ken dày đặc vô vàn là mảnh tước, quy mô khác nhau, to, nhỏ, vừa, tí xíu như vảy cá rô don. Những mảnh đá có dấu ép dấu cưa, những mảnh vòng, mảnh rìu phế phẩm. Đã thấy được ít nhất 3 loại đá, kết cấu hạt đều rất mịn, màu trắng xám (quắc zít), đỏ (như mã não) và vàng.
Chắc chắn là một công xưởng chế tác đồ đá quan trọng của vùng đồng bằng xứ Bắc. Đá và kỹ thuật chế tác gợi nhiều đến Tràng Kênh. Gốm, có ít, đều là gốm thô, hoa văn giống Phùng Nguyên. Năm tới đây Tổ khảo cổ học Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội sẽ xin phép khai quật đợt 1 công xưởng này. Kết quả chắc là lý thú.
Đó là xã Trương Giang, cách Hà Nội 20km, với 5 làng Tiêu: Tiêu Thượng, Tiêu Long, Tiêu Rút, Tiêu Sơn và Tiêu Tề - nằm rải dưới chân Tiêu Sơn và bên bờ Tiêu Tương. Tòa cổ sái trên núi đã tiêu điều, không còn gì là cổ kính, Một tấm bia duy nhất ghi việc cúng ruộng cho chùa thời Bảo Đại, chùa Tràng Liêu (chùa Lào) thời Lý dưới chân núi. Trong làng Tiêu Thượng, nơi tu hành của sư Vạn Hạnh thời Lý, nơi mẹ Lý Công Uẩn hoài thai, chỉ còn lại cái nền.
Trước cửa chùa Tiêu Sơn, phía chân núi, phát hiện một di chỉ kiểu Đường Cồ, tầng văn hóa mỏng, gốm ít. Cũng ở Tiêu Sơn, còn di tích một tòa thành, lũy đất đắp còn lại từng đoạn, lấy Tiêu Tương làm hào. Ở đó có mộ Hán, có gốm văn in, sứ Lý. Có "Bãi Luyện Quân", "Cửa Phủ", "Cửa Đông", nhiều gò cao mang tên Mả Thiu, Mả Viềng, và Mả Mái - mả Lý A Nương, mẹ Lý Súy, chủ nhân của thành theo thần phả, một vị tướng thời Lý, có tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa Thân Lợi năm 1140…
Quả Cảm - Kẻ Cởm của dân gian - trên cửa Ngũ Huyện Khê đổ ra sông Cầu. Một khu di chỉ và mộ táng lớn kiểu Đường Cồ đã được Viện Khảo cổ học và Ty Văn hóa Hà Bắc đào thăm dò. Di chỉ thường xuyên bị phá hoại nghiêm trọng để làm đường.
Rìa đồi Quả Cảm, rất nhiều mộ Hán cổ, quy mô khá lớn. Và rất nhiều gốm cổ Thổ Hà: theo lời truyền miệng của nhân dân, trước khi chuyển lò và làng sang đất Thổ Hà ngày nay, những người thợ gốm cổ đầu tiên đã định cư tại vùng đồi Quả Cảm.
Bờ bên phải Ngũ Huyện Khê, cạnh đồi Quả Cảm là thôn Lẫm (xã Vạn An), thôn của bà chúa Lẫm, theo lời truyền miệng của nhân dân, lấy vua Lý, để kho ở đó và cắt nhiều tù binh Chàm giữ kho (lẫm). Phải chăng đó là Lẫm Cảng được ghi trong Đại Việt sử lược? Khu vực này xưa thuộc huyện Võ Giàng. Tại thôn Lẫm, có rất nhiều nhà họ Tống - họ lớn, và cho đến nay, cha truyền con nối, vẫn tự nhận là gốc từ Chiêm Thành như ghi chép của An Nam chí lược? Nhạc Chàm có ảnh hưởng gì đến dân ca Quan họ? Dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê, có thể kể ít nhất cũng 7 làng có truyền thống quan họ.
Cũng trên cửa sông Ngũ Huyện, cạnh Quả Cảm là làng Diềm (Viêm Xá), một làng quan họ, có đền vua Bà, nơi diễn ra các tối quan họ và chơi vật cầu để cầu mưa. Đền có trụ đá thề. Ở trung lưu Ngũ Huyện Khê, đến Mỵ Châu cũng thờ đá - tượng. Cho đến gần đây, tục thờ "ông Đống", "ông Lúi" - những đống đá, gạch ngày càng chất cao và đốt hương bởi người qua lại - còn khá đậm nét.
Phải chăng đất Việt cổ khi trước có tục thờ đá? Và cũng có một dư ba nào đó của nền văn hóa, văn minh cự thạch? Hình như ngày càng có nhiều minh chứng cho giả thuyết đó. Bờ bên phải Ngũ Huyện Khê, giữa Ngũ Huyện Khê và sông Cầu là di chỉ Nội Gầm, với đồ gốm và đồ đồng Gò Mun muộn và Đường Cồ. Ngay bờ bên phải sông Ngũ Huyện, trên đất Chi Long, chúng tôi phát hiện một di chỉ khảo cổ, di chỉ Chi Long, kiểu Đường Cồ, không có gò mà ở ngay trong làng, làng nhỏ, 2 xóm, với 12 mẫu vườn, nằm giữa vùng đồng bằng chiêm trũng Yên Phong.
Ở đó cũng có di tích tòa thành cổ, đã bị san bằng gần hết, có mộ Hán và gốm văn in, và 2 rìu đá mài nhỏ, đẹp. Đê Chằng Cày mới đắp thời Lê Vĩnh Tộ (thế kỷ thứ 17), và 4 huyện hạ lưu Ngũ Huyện từ đó mới được mùa luôn.
Cùng với di chỉ Đường Cồ của Phú Xuyên giáp vùng ô trũng Hà Nam - Ninh Bình, di chỉ Nội Gầm và Chi Long chứng minh rằng vùng đồng chiêm trũng lưu vực sông Hồng đã được khai phá từ cuối thời đại đồng đầu thời đại sắt, hơn 2000 năm có lẻ.
Và cuối cùng, nổi lên một sự thật, có thể coi là một kinh nghiệm, công tác điền dã khảo cổ học Việt Nam: ở bất cứ nơi nào có di chỉ đồng thau - sắt sớm Việt Nam, chúng tôi cũng thấy có mộ Hán cổ hay di chỉ thời Hán cổ. Và ngược lại.
Phải chăng, đều đó phản ánh 1 sự thật lịch sử, cũng đã được khảo nghiệm ở vùng Điền Trì (Vân Nam): các trung tâm trấn lị, đô hộ của nhà Hán đều nhờ cắm vào vùng kinh tế đã phát đạt của người bản địa Việt cổ, vùng cư dân đã tập trung đông đúc?
Kết thúc bản thông báo ngắn này, là một thú nhận chưa thành công. Điều tra khảo cổ đôi bờ Ngũ Huyện Khê, chúng tôi có ý định dò tìm dấu vết xưa của thành cổ Long Biên, theo Thủy kinh chú và các thư tịch khác là thuộc vùng này. Nhưng chúng tôi chưa tìm thấy. Và do đó, chúng tôi còn tiếp tục thăm tìm trong năm tới…
          Nguồn: Tạp chí Khảo cổ học, số 16/1974, tr.90-92

Bốn xứ Đông - Đoài - Nam - Bắc của đại vùng văn hóa đồng bằng Bắc bộ - Lê Văn Hảo

......

Vùng văn hóa xứ Bắc, nơi hội tụ hài hòa của vua chúa, tôn giáo và văn nghệ dân gian

Xứ Bắc, vùng đất của trấn Kinh Bắc xưa, của hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang nay, là một vùng văn hóa nổi tiếng của tổ quốc, nơi ghi dấu Kinh Dương Vương (lăng mộ còn tại A Lữ, Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), Lạc Long Quân (đền thờ còn tại Bình Ngô, An Binh, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), và Âu Cơ (miếu thờ còn tại A Lữ); cũng là nơi phát tích của triều Lý (thôn Cổ Pháp, huyện Từ Sơn): "thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp".

Xứ Bắc có Luy Lâu, là một trung tâm Phật giáo Việt Nam quan trọng ở miền Đông Á vào đầu công nguyên thời Bắc thuộc, tương đương với hai trung tâm lớn của Phật giáo Trung Hoa cùng thời là Lạc Dương và Bình Thành.

Xứ Bắc là nơi còn lưu giữ những ngôi chùa, ngôi đình có giá trị lịch sử và nghệ thuật quan trọng nhất của Việt Nam: chùa Dâu, Long Hàm, Lục Tổ, Phật Tích, Đức La, Tam Sơn, Vĩnh Nghiêm... ; đình Lỗ Hạnh, Thổ Hà, Phù Lưu, Phù Lão, Đình Diềm, Đình Bảng...

Xứ Bắc có nhiều làng nghề nổi tiếng: Dệt tơ lụa và nhuộm (Đình Bảng), gốm, sành, sứ (Thổ Hà và Bát Tràng), đồ thêu (thị xã Bắc Ninh) cùng những đặc sản: giò chả Từ Sơn, cam Bố Hạ, cát sâm Yên Thế...

Xứ Bắc cũng là nơi đã sáng tạo ra những đỉnh cao của văn nghệ dân gian: Truyền thống ăn ngon, mặc đẹp "ăn Bắc, mặc Kinh", tranh Đông Hồ, hát Quan Họ, hội Lim... cũng là nơi nổi tiếng về truyền thống thượng võ và hiếu học. Đây là quê hương của người anh hùng làng Dóng:

"Trừ giặc còn hiềm ba tuổi đời là muộn
Cưỡi mây vẫn giận chín tầng trời chửa cao"
(Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng vân do hận cửu thiên đê)
Cao Bá Quát

Xứ Bắc cũng là xứ sở của rất nhiều ông nghè, ông cống, tiến sĩ, trạng nguyên: "Một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè ông trạng" hay "một bồ tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn"...

Nói đến vùng văn hóa xứ Bắc phải nhắc đến hai đỉnh cao của nó: hát Quan Họ và hội Lim.

Xuất xứ Kinh Bắc, có lẽ hát Quan Họ đã xuất hiện từ thời Lý thế kỷ 11 và những nghệ nhân dân gian già trẻ của 49 làng quan họ Bắc Ninh xưa nay làm chúng ta kinh ngạc và thán phục vì những canh hát thâu đêm của họ trong hội làng, trước cửa chùa, trên sườn đồi, trên mặt hồ.

Liền anh quan họ mang ô lục soạn, quấn khăn nhiễu tam giang, áo lương, quần trắng; liền chị quan họ có nón quai thao, khăn mỏ quạ, áo mớ ba, khuyên vàng, xà tích. Trong canh hát thâu đêm suốt sáng, gái trai quan họ mời chào nhau, tâm tình với nhau bằng lời thơ tiếng hát. Họ hát đôi (đôi nữ, đôi nam) và hát đối (đối lời, đối giọng). Những đội hát gồm nhiều cặp quan họ gái và trai được đào tạo theo kiểu truyền nghề từ thế hệ già đến thế hệ trẻ. Khi "thành đôi" rồi ít khi "xé cặp". Hát đôi được phân công người hát chính và người hát luồn. Quan họ có tới hai trăm làn điệu khác nhau (Trần Linh Quý và Hồng Thao, Tìm hiểu dân ca quan họ, Hà Nội, 1997).

Hát đối quan họ còn gọi là " nam tòng nữ", là trò chơi ca nhạc cao siêu, nhất là khi thi hát. Hát quan họ luôn luôn đối giọng và đối lời. Liền chị hát bài "Mười thương" thì liền anh trả lời bằng bài "Mười nhớ", nhưng phải đúng giai điệu đó.

Làn điệu quan họ đặc sắc nhất có lẽ là bài "Giã bạn":

Người ơi, người ở đừng về
Người về em những khóc thầm
Bên song vạt áo ướt đầm như mưa
Người về em đứng trông theo
Trông nước nước chảy trông bèo bèo trôi
Người về em dặn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai
Người về em dặn lời rằng
Đâu hơn người lấy đâu bằng đợi em...

Đỉnh cao của nghệ thuật và văn hóa quan họ là hội Lim, diễn ra tại xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, ngày và suốt đêm 13 tháng Giêng.

Hát ngoài đồi: Trong ngày hội Lim các liền anh liền chị đi chơi thành từng nhóm nhỏ, bên nam chưa có bạn thì tìm bên nữ mời họ xơi trầu, nếu nữ thuận nhận trầu tức là nhận lời hát cùng với nam; cũng có khi nữ chủ động mời nam xơi trầu trước. Trong khi hát với nhau, nếu thấy ăn ý về giọng hát và cách đối xử thì hẹn nhau đến một ngày nào đó gặp lại xin kết nghĩa (kết bạn quan họ) với nhau cho đến trọn đời.

Hát trong nhà:  Quan họ khách được hẹn mời từ trước, buổi sáng đến thẳng hội. Quan họ bạn đến cổng làng Lim là hát mừng làng đầu năm mới, mừng nhà, mừng bạn. Quan họ chủ đứng ở sân hát đón khách và hát chúc mừng lại, đưa khách vào nhà, cất nón, cất ô rồi ngồi xuống giường ở hai gian bên cạnh, hoặc hai bên tràng kỷ đối diện nhau mà hát. Không nói bằng lời, tất cả diễn ra hoàn toàn bằng lời thơ, tiếng hát.

Hát trên thuyền: Gái trai bơi thuyền trên ao hồ hay trên sông Làng Bịu (bên cạnh làng Lim) mà hát đối đáp.

Hội Lim là hội giao duyên thi tài của gái lịch trai thanh. Điều thú vị là theo phong tục sở tại, gái trai quan họ đã kết nghĩa với nhau thì không lấy nhau, nhưng gái có chồng và trai có vợ vẫn có thể kết nghĩa và hát với nhau trọn đời, không hề có chuyện ghen tuông, mặc dầu những bài hát quan họ chứa đầy chất thơ lãng mạn của tâm hồn. Họ như là những diễn viên trên một sân khấu tình yêu lý tưởng, hát xong ai về nhà nấy để mà thương mà nhớ. Thực là một phong tục văn nghệ, một văn hóa tình cảm ít thấy trên quả đất này.

(Sưu tầm)

Nguồn: Diễn Đàn Kiến Thức