Friday, April 6, 2012
Lịch Sử Quê Hương Cách Mạng (Chương 1)
"Trung Mầu là một làng lớn nằm bên trong đê sông Đuống, có nhiều cơ sở mà các đồng chí Trung Ương thường về họp. Tại Trung Mầu nơi có cơ sở Đảng vững mạnh, nhân dân địa phương dưới sự lãnh đạo cả chi bộ Đảng đã đứng lên lật đổ chính quyền của địch thành lập chính quyền cách mạng ngày mồng 10 tháng 3 năm 1945. Đây là nơi giành chính quyền sớm nhất trong cách mạng tháng 8"
(Trích trong cuốn Lịch sử cách mạng tháng 8 năm 1945 trang 86)
CHƯƠNG I
TRUNG MẦU - CON NGƯỜI - LỊCH SỬ
Trung Mầu ngày nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, là đất đai của hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên thuộc tổng Dũng Vi huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, do có chủ trương sát nhập liên xã, hai làng trên đã hợp làm một và được đặt tên là xã Trung Hưng.
Sau hòa bình lập lại (1954) do việc mở rộng ngoại vi Hà Nội, ngày 20/4/1961 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra quyết định chuyển giao xã Trung Hưng về huyện Gia Lâm. Dựa vào quyết định đó ngày 31 tháng 5 năm 1961 Hội đồng chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại ra quyết định số 78/cp lấy huyện Gia Lâm là thuộc ngoại thành Hà Nội.
Với ý nghĩa là một xã có truyền thống cách mạng, ngày 1 tháng 1 năm 1965 Trung Hưng được trở lại tên cũ là xã Trung Mầu
Địa giới của xã:
-Phía đông-nam giáp xã Lệ Chi (cách sông Đuống)
-Phía tây-nam giáp xã Phù Đổng
-Phía đông-bắc giáp xã Đại Đồng và xã Tri Phương huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Xã nằm bên bờ tả ngạn sông Đuống, ở về phía đông bắc và cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km. Diện tích đất đai toàn xã là: 4.240.000m2. Mật độ dân số bình quân 920m2/người.
Xưa kia đường giao thông chính của Trung Mầu chủ yếu là đê của sông Đuống. Về sau do nhu cầu mở rộng đường dân sinh liên xã, được sự quan tâm và giúp đỡ của cấp trên Trung Mầu đã đắp thêm một con đường trục lớn, nâng cấp láng nhựa nối liền với đường 179 đi qua các xã Phù Đổng, Ninh Hiệp rồi ra quốc lộ 1A. So với các xã trong huyện Gia Lâm thì Trung Mầu vẫn còn là một xã xa nhất và hẻo lánh.
Căn cứ vào chính sử thì Trung Mầu là một xã thuộc vùng đất cổ. Truyền thuyết về Đức Thánh Gióng có nói đến người cầm vồ ở Trung Mầu với sắc phong còn lưu lại là Quách Lân Đại Vương. Từ buổi bình minh của tổ quốc vào đời Hùng Vương thứ 6 (khoảng hơn 4000 năm nay) bấy giờ có giặc Ân phương Bắc(thường gọi là nữ tặc) đến xâm lược tràn vào nước ta như nước vỡ bờ. Thế giặc mạnh, vua tôi lo sợ cầu người hiền tài. Cậu bé làng Gióng ăn "bảy nong cơm, ba nong cà", uống "một hơi nước cạn đà khúc sông" lớn nhanh như thổi, bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tương truyền khi đạo quân binh mã của Ngài ầm ầm kéo qua cánh đồng làng Trung Mầu. Quách Lân một thanh niên khoẻ mạnh trí dũng song toàn đang đập đất trồng cà. Vốn là một người giàu lòng yêu nước và đầy khí phách anh hùng, Quách Lân đã hăng hái cầm vồ ruổi theo vó ngựa của Đức Thánh Gióng xông thẳng ra trước trận tiền đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi giành lại giang sơn cho đất nước.
"Người đang đập đất trên đồng
Em sau, anh trước một lòng đi theo"
(Trích truyện Thánh Gióng của Trần Lê Văn)
Hiện nay ở cánh đồng Trung Mầu vẫn còn dấu tích một gò đống to (đường Ghênh ngày nay). Tương truyền đó chính là nơi Quách Lân đi theo Đức Thánh Gióng năm xưa. Hàng năm cứ đến ngày hội Gióng (mồng 9 tháng 4 âm lịch) là ngày ở Trung Mầu phải sửa lễ vật rước đến đền Phù Đổng cúng tế. Tục lệ đó vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay.
Theo cuốn lịch sử các làng ở thủ đô Hà Nội, Trung Mầu có tên nôm là làng Miêu, một làng xưa thờ nhà sư Lý Khổng Minh Không (tức Lý Quốc Sư) tại Chùa Đô. Vì có chiến tích đối với quốc gia, nhà sư đó còn được vua đưa về tưởng niệm tại Kinh Đô Thăng Long. Hiện nay có đền thờ ở phố Lý Quốc Sư quận Hoàn Kiếm nội thành Hà Nội.
Thịnh Liên từ thời Tiền Lê cũng có tên nôm là làng Lân (một làng cận Giang). Chuyện kể rằng đó là làng Mục Hoàn trước kia ở xứ đồng Cửa Cầu được di chuyển đến. Về sau có thêm một số người ở Hà Nam lên làm nghề chài lưới ven bờ sông Thiên Đức cũng nhập cư vào đây. Có thể nói là thượng lưu sông Dâu đến hạ lưu sông Lục Đầu, đâu đâu cũng đều có người làng Lân kiếm cá. Xưa kia sông Thiên Đức chảy qua hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên. Sông nhỏ nước trong hai làng vẫn thường gánh nước về ăn hoặc tắm giặt vào những ngày hè. Thời Tự Đức cho đào kênh phân lũ nối liền sông Thiên Đức với sông Hồng dần dần tạo thêm một khúc sông mới (chỗ từ Cầu Đuống đến ngã ba sông Dâu bây giờ). Từ đó nước sông Hồng tràn vào đem theo lượng phù sa khá lớn bồi đắp đất đai hai ven sông màu mỡ. Sông Thiên Đức về sau được gọi là sông Đuống.
Mặt khác dựa vào kết quả nghiên cứu khoa học của ngành khảo cổ học ở di chỉ Trung Mầu đã tìm thấy một số ngôi mộ cổ như: Ngôi mộ xóm ngoài, ngôi mộ Vườn Rú, ngôi mộ Triền Vàng... Trong những ngôi mộ kể trên có nhiều hiện vật như vò gốm, tiền đồng, bát đĩa đồng, giáo mác đồng cũng như biết bao dụng cụ bằng đồng khác. Đặc biệt còn tìm thấy cả trống đồng loại I, chiếc rìu đồng lưỡi xén, chậu đồng, thạp đồng,... có khắc họa các hoa văn hình chó săn, hươu, hình người có áo chui đầu, khăn đầu, mũ cắm lông chim, trai đóng khố, gái mặc váy ngắn. Những ngôi mộ cổ đó có niên đại từ thế kỷ đầu đến thế kỷ IV, V trước Công nguyên.
Ở Trung Mầu và Thịnh Liên tất cả có gần 20 cái bia lớn nhỏ. Các bài ký trên bia đều ghi lại việc thờ hậu của nhân dân hai làng và ca ngợi công lao đức độ đối với những người có công. Từng nghe kinh thư có câu cách ngôn: "Ai có công thì được thờ cúng", kinh lễ có lời minh huấn: "Ai làm ơn tất được báo đền". Chỉ có thể kể lại một số bia tiêu biểu như sau:
1-Bia Từ Vũ:
Tạo năm Vĩnh Trị III (1678) người soạn bia là ông Hồ Sĩ Dương (tiến sĩ năm 1652). Nội dung bia ghi lại vị Tả Đô Đốc Trương Tướng Công và vợ là Lê Thị Toàn người xã Giới Tế huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, bỏ tiền giúp dân lo việc quan, lo dân lưu tán về quê. Về sau có 5 mẫu 5 sào ruộng đẳng điền để hương hỏa đèn nhang thờ thánh, được dân bầu làm Mậu Đức.
2-Bia Từ Chỉ:
Tạo năm Chính Hòa XIII (1692) người soạn bia là ông Vũ Thành (Thám Hoa). Nội dung bia ca ngợi nhân đức Nguyễn Công Chiêm và Thê chính phu nhân Nguyễn Thị Ngọc Thảng người làng Trung Mầu đỗ tiến sĩ làm quan thị nội giám trong triều.
Năm Chính Hòa XI (1690) giúp dân Trung Mầu 11.000 quan và 17 mẫu ruộng.
Năm Chính Hòa XIII (1692) giúp dân ba lần
-Sáu xã Tiên Du-Gia Lâm: 4.000 quan, 13 mẫu 1 sào
-Sáu xã Tiên Du-Gia Lâm: 4.100 quan, 12 mẫu 4 sào
-Thịnh Liên: 700 quan, 2 mẫu để xây dựng đình dựng bia, Trung Mầu 200 quan để xây chùa.
Do có công lao như vậy xã Trung Mầu được chọn thửa ruộng hơn hai sào phụng lập dựng bia Từ Chỉ để người đời sáu xã ghi lòng tạc dạ lâu dài. Bài ca về Từ Chỉ lúc bây giờ còn lưu truyền mãi đến ngày nay.
"Trung Mầu anh cả
Hàng xã thứ hai
Dũng Vi chi ngoài
Kim Đường, Hàn Lạc"
***
"Sáu xã sáu đình
Sáu trăm quan tiền
Sáu xã yêu nhau
Thuận Hòa vi quí..."
3-Bia Bà Đức Chiêu:
Tạo năm Vĩnh Thịnh VI (1710) người soạn bia là ông Nguyễn Đăng Đạo tiến sĩ 1683) trạng nguyên lưỡng quốc (Việt Nam-Trung Quốc) quê Bắc Ninh. Nội dung bia kể về bà cung tần Trần Thị Ngọc Nhuyễn sinh năm 1673 bậc tôn quí ở xã Vạn Phần huyện Đông Thành Phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An. Bà là người vẹn toàn công dung ngôn hạnh được yêu quí nhất trong số 3000 cung phi, được đội ơn ban thưởng hàng trăm lạng vàng. Bà nghĩ: "Tích tiền của chỉ là phô bày hào nhoáng nhất thời, sao bằng kết thân với xóm làng, truyền lại việc hương khói gây được tiếng tăm để lời khen đến vạn đời". Bà bèn chọn nơi có phong tục tốt để xây nhà, xem địa thế chẳng đâu bằng đất Trung Mầu nên năm Quí Mùi(1703) nhân lúc đói kém bà làm phúc cho xã Trung Mầu 400 quan tiền, 4 mẫu 5 sào ruộng tốt.
Tám giáp trong xã đem chia đều từ lớn đến nhỏ, cùng nhau tôn bầu bà làm hậu thần và giao ước rằng: Khi bà còn sống phải thờ bà như bậc cha mẹ kính yêu, đến khi bà mất thì thờ cúng như thần linh.
Ngày 15 tháng 4 năm Canh Dần (1710) khắc bia vào đá để làm lời giao ước vững bền khiến cho công đức muôn đời không dời đổi, kẻ nào không tuân theo có trời đất soi xét, quan tư sẽ khép vào pháp luật. Vậy phải ghi lòng tạc dạ báo đức đền ơn "nhuộm mà không đen, mài mà không mòn, lời giao ước như núi sông, sáng như nhật Nguyệt", nhìn thấy bia tất nhớ đến người thì quí đến bia, chớ vì lâu năm mà chán bỏ, luôn nhớ đến công ơn để lại cùng nhau suy tưởng, càng xa lại càng sáng, càng lâu lại càng thơm, há chẳng tốt đẹp ru nhân khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi
Tục thờ Thành Hoàng ở hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên có nhiều điểm giống nhau. Các ngày lễ đình được qui định rõ ràng hàng tháng vào ngày mồng 1(sóc), vào ngày rằm (vọng) ngày kỵ thánh hay ngày sinh được diễn ra rất long trọng có thể kéo dài từ ba đến 5 ngày gọi là đại lễ. Ngoài ra hai làng còn mở hội vào hai dịp Xuân, Thu, các ngày xuống đồng (gọi là lễ hạ điền), lên đồng cơm mới (gọi là lễ thượng điền). Những sản phẩm làm ra thường được lựa chọn kỹ lưỡng dâng lên cúng Thánh.
Việc chuẩn bị lễ có thể do một gia đình hoặc ban cho một dòng họ trong làng thay mặt tiến lễ, sang năm đến họ khác. Năm ấy họ nào được cúng tiến là niềm hạnh phúc lớn để đáp lễ Đức Thánh đã bảo hộ cho họ mình ăn lên làm ra. Nghi lễ là bước trọng yếu trong ngày hội. Dân làng bầu ra một người có uy tín là chủ lễ đánh ba hồi trống điểm báo với thần linh, đội tế (nam giới), đội dâng hương (nữ giới) lần lượt theo nghi lễ đã qui định, đội thanh nhạc hòa đồng với đội tế làm cho nghi lễ ngày hội càng long trọng.
Trong ngày lễ có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như: đánh cờ, đánh vật, đánh đu, chọi gà, thả chim, hát trống quân, hát tuồng... Có rước sách, có ăn uống linh đình trong dân. Với việc tổ chức long trọng và tỉ mỉ như vậy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong mỗi người. Tục thờ Thành Hoàng ở Trung Mầu nói chung cũng được hòa nhập với cộng đồng người Việt Nam đã có từ lâu đời (thời Hậu Lê). Trung Mầu xưa có một đình, một nghè, hai chùa (một gọi là Chùa Đô, một gọi là chùa Mới nay xây nhà truyền thống của xã). Thịnh Liên có hai đình hai chùa. Theo sắc phong còn để lại cả hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên đều thờ ba vị tướng: Cao Chương Đại Vương, Cao Gia Đại Vương, Tòng Chinh Đại Vương, (thời Đinh). Các vị tướng này đều là nhân vật cụ thể có công đánh giặc giữ nước thuộc địa phận hai làng được nhà vua phong tướng sắc. Riêng làng Thịnh Liên vì đại bộ phận là dân chài còn thờ vị thần: "Hán Giang Thủy Tộc Long Vương". Thời ấy sự ngưỡng mộ Thành Hoàng cũng không kém gì sự ngưỡng mộ tổ tiên của nhân dân hai làng.
Tính đến năm 1975 Trung Mầu có diện tích là 952 mẫu, riêng đất canh tác có 670 mẫu trong đó ruộng trên đồng có 469 mẫu, ngoài bãi có 201 mẫu. Dân số của Trung Mầu có 3750 nhân khẩu. So với ruộng đất bình quân đầu người là 1 sào 8 thước. Ruộng đất trên đồng phần lớn là cấy hai vụ lúa cộng với một số trồng xen thêm vụ màu như tỏi, khoai tây, thuốc lá và các loại ra. Ruộng đất ngoài bãi chủ yếu là trồng ngô, xưa kia có trồng lúa lốc, trồng kê, trồng dâu nuôi tằm. Về sau phát triển mạnh nghề trồng mía ép đường, trồng bắp cải, cà rốt, lạc, ớt xuất khẩu... Năng xuất lúa tốt nhất là 170kg/sào còn thường là 120kg/sào. Bình quân cứ có 3-4 năm được mùa lại có một năm mất mùa vì nhiều sâu cắn gié, hạn hán cháy đồng, lũ lụt. Trên 30% dân thiếu lương thực triền miên. So với diện tích đất đai trong toàn xã thì hồ ao đầm ở Trung Mầu tương đối nhiều, có hơn 100 cái lớn nhỏ chiếm diện tích khoảng 60 mẫu.
Về Nghề nghiệp
Trung Mầu có nghề chăn nuôi lợn nái từ lâu đời. Người ta kể rằng không rõ nghề đó đã thâm nhập vào Trung Mầu từ bao giờ, nhưng là một nghề rất cơ bản vì ngoài việc có phân để bón ruộng họ còn có vốn có món để làm nhà, để lấy vợ cho con. Mỗi gia đình thường nuôi ít nhất là một con, nhiều gia đình nuôi hai con. Hàng năm Trung Mầu đã cung cấp hàng nghìn con lợn giống cho nhân dân trong vùng và các nơi khác. Người xưa ở Trung Mầu đã có câu ca:
"Trung Mầu đi bán lợn con
Bán đắt bán rẻ lon ton chạy về
Trung Mầu đi bán lợn xề
Bán đắt bán rẻ chạy về lon ton"
Từ đó Trung Mầu đã thực sự trở thành "vùng lợn giống" của huyện Gia Lâm.
Nghề đáng kể thứ hai là nghề chăn nuôi vịt. Từ lâu ở đây đã có nhiều lò ấp vịt, mỗi năm đã bán ra ngoài hàng vạn con vịt con, hàng nghìn con vịt thịt. Do việc chăn nuôi vịt phát triển nhiều gia đình đã ăn nên làm ra như có bát cơm ăn, xây được nhà ngói để ở, mua sắm được các dụng cụ sinh hoạt trong gia đình.
Ngoài hai nghề trên còn một nghề đáng kể nữa là nghề nuôi tằm ươm tơ. Tương truyền rằng: Ngày xưa bà Đức Chiêu có đem nghề tằm về đây dạy cho Trung Mầu biết làm ăn và đã được bà con ở đây dựng bia thờ (tấm bia đó hiện còn ở Trung Mầu). Từ lâu nghề nuôi tằm ươm tơ tuy đã bị mai một nhưng vẫn còn lưu truyền trong nhân dân ta cho mãi tới ngày nay.
Năm 1976 Trung Mầu có phát triển thêm một số nghề thủ công khác như nghề nung gạch, nghề thêu ren, quại ngô... Nhiều mặt hàng được đảm bảo kỹ thuật và đã được xuất khẩu đi một số nước trên thế giới.
Trước đây Trung Mầu còn có sới Vật và lò dạy võ. Đặc biệt là Vật một thời đã nổi tiếng ở trong vùng, thanh niên họ đua nhau tham gia tập luyện vừa để nâng cao thể lực vừa vui chơi trong những ngày hội hè. Người thầy dạy võ vật đầu tiên là ông Từ Vũ (hiện còn tấm bia ở Trung Mầu)
Gà chọi, chim bay cũng là sở thích của một số người ở cả hai làng. Hàng năm Trung Mầu thường có mở hội chim, gà chọi vào tháng 4 âm lịch. Ngày hội đông lắm, người các nơi từ Chờ, Chõ, Giốt, Let, Cẩm, Lim, Khắc Liệm, Bái Uyên, Dâu, Keo... đều về đây tham dự hội.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa do có chơi gà chọi, chim bay nhà cụ Nguyễn Phú Nghi và cụ Nguyễn Xuân Đống đã có nhiều đồng chí cán bộ của Trung ương, của xứ ủy Bắc Kỳ, của tỉnh Bắc Ninh qua lại mà vẫn che mắt được quân thù.
Tuồng là một trong những hình thức nghệ thuật cổ truyền đặc sắc của dân tộc. Từ lâu ở Trung Mầu đã xuất hiện một vài gánh hát không chuyên nghệ nhân thường ngày làm ruộng, hàng năm xuân thu nhị kỳ họ tụ tập nhau lại chủ yếu vào những ngày hội hè đình đám của làng và các xã phụ cận. Một thời đã có tin gần đồn xa được bà con nhiều nơi tấm tắc khen ngợi một số kép và đào ở Trung Mầu.
Mê tín di đoan là một thói hư tật xấu của xã hội cũ, do giai cấp phong kiến đặt ra để mê hoặc và lừa bịp nhân dân ta. Cả Trung Mầu và Thịnh Liên trước kia đếm đầu ngón tay mới thấy có một vài điện thờ nhỏ và một số cây hương. Thầy bói, thầy cúng, đồng cốt... là những người làm nghề hèn hạ ở Trung Mầu thấy cũng xuất hiện rất ít.
Trung Mầu là một xã có hoàn cảnh địa lý khá đặc biệt nên có ảnh hưởng đến sự phát triển của lịch sử địa phương. Trung Mầu là một xã nằm trong địa bàn cư trú của người Việt cổ, đất đai màu mỡ có truyền thống lâu đời, phong tục tập quán lành mạnh. Cuộc sống lâu đời và đầy sáng tạo đó đã để lại cho nhân dân Trung Mầu một niềm tự hào về tổ tiên, về quê hương của mình...
(Hết chương 1 - Mời bạn ghé đọc Chương 2)
Nguồn Trường THCS Trung Mầu
(Trích trong cuốn Lịch sử cách mạng tháng 8 năm 1945 trang 86)
CHƯƠNG I
TRUNG MẦU - CON NGƯỜI - LỊCH SỬ
Trung Mầu ngày nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, là đất đai của hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên thuộc tổng Dũng Vi huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, do có chủ trương sát nhập liên xã, hai làng trên đã hợp làm một và được đặt tên là xã Trung Hưng.
Sau hòa bình lập lại (1954) do việc mở rộng ngoại vi Hà Nội, ngày 20/4/1961 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra quyết định chuyển giao xã Trung Hưng về huyện Gia Lâm. Dựa vào quyết định đó ngày 31 tháng 5 năm 1961 Hội đồng chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại ra quyết định số 78/cp lấy huyện Gia Lâm là thuộc ngoại thành Hà Nội.
Với ý nghĩa là một xã có truyền thống cách mạng, ngày 1 tháng 1 năm 1965 Trung Hưng được trở lại tên cũ là xã Trung Mầu
Địa giới của xã:
-Phía đông-nam giáp xã Lệ Chi (cách sông Đuống)
-Phía tây-nam giáp xã Phù Đổng
-Phía đông-bắc giáp xã Đại Đồng và xã Tri Phương huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Xã nằm bên bờ tả ngạn sông Đuống, ở về phía đông bắc và cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km. Diện tích đất đai toàn xã là: 4.240.000m2. Mật độ dân số bình quân 920m2/người.
Xưa kia đường giao thông chính của Trung Mầu chủ yếu là đê của sông Đuống. Về sau do nhu cầu mở rộng đường dân sinh liên xã, được sự quan tâm và giúp đỡ của cấp trên Trung Mầu đã đắp thêm một con đường trục lớn, nâng cấp láng nhựa nối liền với đường 179 đi qua các xã Phù Đổng, Ninh Hiệp rồi ra quốc lộ 1A. So với các xã trong huyện Gia Lâm thì Trung Mầu vẫn còn là một xã xa nhất và hẻo lánh.
Căn cứ vào chính sử thì Trung Mầu là một xã thuộc vùng đất cổ. Truyền thuyết về Đức Thánh Gióng có nói đến người cầm vồ ở Trung Mầu với sắc phong còn lưu lại là Quách Lân Đại Vương. Từ buổi bình minh của tổ quốc vào đời Hùng Vương thứ 6 (khoảng hơn 4000 năm nay) bấy giờ có giặc Ân phương Bắc(thường gọi là nữ tặc) đến xâm lược tràn vào nước ta như nước vỡ bờ. Thế giặc mạnh, vua tôi lo sợ cầu người hiền tài. Cậu bé làng Gióng ăn "bảy nong cơm, ba nong cà", uống "một hơi nước cạn đà khúc sông" lớn nhanh như thổi, bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tương truyền khi đạo quân binh mã của Ngài ầm ầm kéo qua cánh đồng làng Trung Mầu. Quách Lân một thanh niên khoẻ mạnh trí dũng song toàn đang đập đất trồng cà. Vốn là một người giàu lòng yêu nước và đầy khí phách anh hùng, Quách Lân đã hăng hái cầm vồ ruổi theo vó ngựa của Đức Thánh Gióng xông thẳng ra trước trận tiền đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi giành lại giang sơn cho đất nước.
"Người đang đập đất trên đồng
Em sau, anh trước một lòng đi theo"
(Trích truyện Thánh Gióng của Trần Lê Văn)
Hiện nay ở cánh đồng Trung Mầu vẫn còn dấu tích một gò đống to (đường Ghênh ngày nay). Tương truyền đó chính là nơi Quách Lân đi theo Đức Thánh Gióng năm xưa. Hàng năm cứ đến ngày hội Gióng (mồng 9 tháng 4 âm lịch) là ngày ở Trung Mầu phải sửa lễ vật rước đến đền Phù Đổng cúng tế. Tục lệ đó vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay.
Theo cuốn lịch sử các làng ở thủ đô Hà Nội, Trung Mầu có tên nôm là làng Miêu, một làng xưa thờ nhà sư Lý Khổng Minh Không (tức Lý Quốc Sư) tại Chùa Đô. Vì có chiến tích đối với quốc gia, nhà sư đó còn được vua đưa về tưởng niệm tại Kinh Đô Thăng Long. Hiện nay có đền thờ ở phố Lý Quốc Sư quận Hoàn Kiếm nội thành Hà Nội.
Thịnh Liên từ thời Tiền Lê cũng có tên nôm là làng Lân (một làng cận Giang). Chuyện kể rằng đó là làng Mục Hoàn trước kia ở xứ đồng Cửa Cầu được di chuyển đến. Về sau có thêm một số người ở Hà Nam lên làm nghề chài lưới ven bờ sông Thiên Đức cũng nhập cư vào đây. Có thể nói là thượng lưu sông Dâu đến hạ lưu sông Lục Đầu, đâu đâu cũng đều có người làng Lân kiếm cá. Xưa kia sông Thiên Đức chảy qua hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên. Sông nhỏ nước trong hai làng vẫn thường gánh nước về ăn hoặc tắm giặt vào những ngày hè. Thời Tự Đức cho đào kênh phân lũ nối liền sông Thiên Đức với sông Hồng dần dần tạo thêm một khúc sông mới (chỗ từ Cầu Đuống đến ngã ba sông Dâu bây giờ). Từ đó nước sông Hồng tràn vào đem theo lượng phù sa khá lớn bồi đắp đất đai hai ven sông màu mỡ. Sông Thiên Đức về sau được gọi là sông Đuống.
Mặt khác dựa vào kết quả nghiên cứu khoa học của ngành khảo cổ học ở di chỉ Trung Mầu đã tìm thấy một số ngôi mộ cổ như: Ngôi mộ xóm ngoài, ngôi mộ Vườn Rú, ngôi mộ Triền Vàng... Trong những ngôi mộ kể trên có nhiều hiện vật như vò gốm, tiền đồng, bát đĩa đồng, giáo mác đồng cũng như biết bao dụng cụ bằng đồng khác. Đặc biệt còn tìm thấy cả trống đồng loại I, chiếc rìu đồng lưỡi xén, chậu đồng, thạp đồng,... có khắc họa các hoa văn hình chó săn, hươu, hình người có áo chui đầu, khăn đầu, mũ cắm lông chim, trai đóng khố, gái mặc váy ngắn. Những ngôi mộ cổ đó có niên đại từ thế kỷ đầu đến thế kỷ IV, V trước Công nguyên.
Ở Trung Mầu và Thịnh Liên tất cả có gần 20 cái bia lớn nhỏ. Các bài ký trên bia đều ghi lại việc thờ hậu của nhân dân hai làng và ca ngợi công lao đức độ đối với những người có công. Từng nghe kinh thư có câu cách ngôn: "Ai có công thì được thờ cúng", kinh lễ có lời minh huấn: "Ai làm ơn tất được báo đền". Chỉ có thể kể lại một số bia tiêu biểu như sau:
1-Bia Từ Vũ:
Tạo năm Vĩnh Trị III (1678) người soạn bia là ông Hồ Sĩ Dương (tiến sĩ năm 1652). Nội dung bia ghi lại vị Tả Đô Đốc Trương Tướng Công và vợ là Lê Thị Toàn người xã Giới Tế huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, bỏ tiền giúp dân lo việc quan, lo dân lưu tán về quê. Về sau có 5 mẫu 5 sào ruộng đẳng điền để hương hỏa đèn nhang thờ thánh, được dân bầu làm Mậu Đức.
2-Bia Từ Chỉ:
Tạo năm Chính Hòa XIII (1692) người soạn bia là ông Vũ Thành (Thám Hoa). Nội dung bia ca ngợi nhân đức Nguyễn Công Chiêm và Thê chính phu nhân Nguyễn Thị Ngọc Thảng người làng Trung Mầu đỗ tiến sĩ làm quan thị nội giám trong triều.
Năm Chính Hòa XI (1690) giúp dân Trung Mầu 11.000 quan và 17 mẫu ruộng.
Năm Chính Hòa XIII (1692) giúp dân ba lần
-Sáu xã Tiên Du-Gia Lâm: 4.000 quan, 13 mẫu 1 sào
-Sáu xã Tiên Du-Gia Lâm: 4.100 quan, 12 mẫu 4 sào
-Thịnh Liên: 700 quan, 2 mẫu để xây dựng đình dựng bia, Trung Mầu 200 quan để xây chùa.
Do có công lao như vậy xã Trung Mầu được chọn thửa ruộng hơn hai sào phụng lập dựng bia Từ Chỉ để người đời sáu xã ghi lòng tạc dạ lâu dài. Bài ca về Từ Chỉ lúc bây giờ còn lưu truyền mãi đến ngày nay.
"Trung Mầu anh cả
Hàng xã thứ hai
Dũng Vi chi ngoài
Kim Đường, Hàn Lạc"
***
"Sáu xã sáu đình
Sáu trăm quan tiền
Sáu xã yêu nhau
Thuận Hòa vi quí..."
3-Bia Bà Đức Chiêu:
Tạo năm Vĩnh Thịnh VI (1710) người soạn bia là ông Nguyễn Đăng Đạo tiến sĩ 1683) trạng nguyên lưỡng quốc (Việt Nam-Trung Quốc) quê Bắc Ninh. Nội dung bia kể về bà cung tần Trần Thị Ngọc Nhuyễn sinh năm 1673 bậc tôn quí ở xã Vạn Phần huyện Đông Thành Phủ Diễn Châu tỉnh Nghệ An. Bà là người vẹn toàn công dung ngôn hạnh được yêu quí nhất trong số 3000 cung phi, được đội ơn ban thưởng hàng trăm lạng vàng. Bà nghĩ: "Tích tiền của chỉ là phô bày hào nhoáng nhất thời, sao bằng kết thân với xóm làng, truyền lại việc hương khói gây được tiếng tăm để lời khen đến vạn đời". Bà bèn chọn nơi có phong tục tốt để xây nhà, xem địa thế chẳng đâu bằng đất Trung Mầu nên năm Quí Mùi(1703) nhân lúc đói kém bà làm phúc cho xã Trung Mầu 400 quan tiền, 4 mẫu 5 sào ruộng tốt.
Tám giáp trong xã đem chia đều từ lớn đến nhỏ, cùng nhau tôn bầu bà làm hậu thần và giao ước rằng: Khi bà còn sống phải thờ bà như bậc cha mẹ kính yêu, đến khi bà mất thì thờ cúng như thần linh.
Ngày 15 tháng 4 năm Canh Dần (1710) khắc bia vào đá để làm lời giao ước vững bền khiến cho công đức muôn đời không dời đổi, kẻ nào không tuân theo có trời đất soi xét, quan tư sẽ khép vào pháp luật. Vậy phải ghi lòng tạc dạ báo đức đền ơn "nhuộm mà không đen, mài mà không mòn, lời giao ước như núi sông, sáng như nhật Nguyệt", nhìn thấy bia tất nhớ đến người thì quí đến bia, chớ vì lâu năm mà chán bỏ, luôn nhớ đến công ơn để lại cùng nhau suy tưởng, càng xa lại càng sáng, càng lâu lại càng thơm, há chẳng tốt đẹp ru nhân khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi
Tục thờ Thành Hoàng ở hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên có nhiều điểm giống nhau. Các ngày lễ đình được qui định rõ ràng hàng tháng vào ngày mồng 1(sóc), vào ngày rằm (vọng) ngày kỵ thánh hay ngày sinh được diễn ra rất long trọng có thể kéo dài từ ba đến 5 ngày gọi là đại lễ. Ngoài ra hai làng còn mở hội vào hai dịp Xuân, Thu, các ngày xuống đồng (gọi là lễ hạ điền), lên đồng cơm mới (gọi là lễ thượng điền). Những sản phẩm làm ra thường được lựa chọn kỹ lưỡng dâng lên cúng Thánh.
Việc chuẩn bị lễ có thể do một gia đình hoặc ban cho một dòng họ trong làng thay mặt tiến lễ, sang năm đến họ khác. Năm ấy họ nào được cúng tiến là niềm hạnh phúc lớn để đáp lễ Đức Thánh đã bảo hộ cho họ mình ăn lên làm ra. Nghi lễ là bước trọng yếu trong ngày hội. Dân làng bầu ra một người có uy tín là chủ lễ đánh ba hồi trống điểm báo với thần linh, đội tế (nam giới), đội dâng hương (nữ giới) lần lượt theo nghi lễ đã qui định, đội thanh nhạc hòa đồng với đội tế làm cho nghi lễ ngày hội càng long trọng.
Trong ngày lễ có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như: đánh cờ, đánh vật, đánh đu, chọi gà, thả chim, hát trống quân, hát tuồng... Có rước sách, có ăn uống linh đình trong dân. Với việc tổ chức long trọng và tỉ mỉ như vậy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong mỗi người. Tục thờ Thành Hoàng ở Trung Mầu nói chung cũng được hòa nhập với cộng đồng người Việt Nam đã có từ lâu đời (thời Hậu Lê). Trung Mầu xưa có một đình, một nghè, hai chùa (một gọi là Chùa Đô, một gọi là chùa Mới nay xây nhà truyền thống của xã). Thịnh Liên có hai đình hai chùa. Theo sắc phong còn để lại cả hai làng Trung Mầu và Thịnh Liên đều thờ ba vị tướng: Cao Chương Đại Vương, Cao Gia Đại Vương, Tòng Chinh Đại Vương, (thời Đinh). Các vị tướng này đều là nhân vật cụ thể có công đánh giặc giữ nước thuộc địa phận hai làng được nhà vua phong tướng sắc. Riêng làng Thịnh Liên vì đại bộ phận là dân chài còn thờ vị thần: "Hán Giang Thủy Tộc Long Vương". Thời ấy sự ngưỡng mộ Thành Hoàng cũng không kém gì sự ngưỡng mộ tổ tiên của nhân dân hai làng.
Tính đến năm 1975 Trung Mầu có diện tích là 952 mẫu, riêng đất canh tác có 670 mẫu trong đó ruộng trên đồng có 469 mẫu, ngoài bãi có 201 mẫu. Dân số của Trung Mầu có 3750 nhân khẩu. So với ruộng đất bình quân đầu người là 1 sào 8 thước. Ruộng đất trên đồng phần lớn là cấy hai vụ lúa cộng với một số trồng xen thêm vụ màu như tỏi, khoai tây, thuốc lá và các loại ra. Ruộng đất ngoài bãi chủ yếu là trồng ngô, xưa kia có trồng lúa lốc, trồng kê, trồng dâu nuôi tằm. Về sau phát triển mạnh nghề trồng mía ép đường, trồng bắp cải, cà rốt, lạc, ớt xuất khẩu... Năng xuất lúa tốt nhất là 170kg/sào còn thường là 120kg/sào. Bình quân cứ có 3-4 năm được mùa lại có một năm mất mùa vì nhiều sâu cắn gié, hạn hán cháy đồng, lũ lụt. Trên 30% dân thiếu lương thực triền miên. So với diện tích đất đai trong toàn xã thì hồ ao đầm ở Trung Mầu tương đối nhiều, có hơn 100 cái lớn nhỏ chiếm diện tích khoảng 60 mẫu.
Về Nghề nghiệp
Trung Mầu có nghề chăn nuôi lợn nái từ lâu đời. Người ta kể rằng không rõ nghề đó đã thâm nhập vào Trung Mầu từ bao giờ, nhưng là một nghề rất cơ bản vì ngoài việc có phân để bón ruộng họ còn có vốn có món để làm nhà, để lấy vợ cho con. Mỗi gia đình thường nuôi ít nhất là một con, nhiều gia đình nuôi hai con. Hàng năm Trung Mầu đã cung cấp hàng nghìn con lợn giống cho nhân dân trong vùng và các nơi khác. Người xưa ở Trung Mầu đã có câu ca:
"Trung Mầu đi bán lợn con
Bán đắt bán rẻ lon ton chạy về
Trung Mầu đi bán lợn xề
Bán đắt bán rẻ chạy về lon ton"
Từ đó Trung Mầu đã thực sự trở thành "vùng lợn giống" của huyện Gia Lâm.
Nghề đáng kể thứ hai là nghề chăn nuôi vịt. Từ lâu ở đây đã có nhiều lò ấp vịt, mỗi năm đã bán ra ngoài hàng vạn con vịt con, hàng nghìn con vịt thịt. Do việc chăn nuôi vịt phát triển nhiều gia đình đã ăn nên làm ra như có bát cơm ăn, xây được nhà ngói để ở, mua sắm được các dụng cụ sinh hoạt trong gia đình.
Ngoài hai nghề trên còn một nghề đáng kể nữa là nghề nuôi tằm ươm tơ. Tương truyền rằng: Ngày xưa bà Đức Chiêu có đem nghề tằm về đây dạy cho Trung Mầu biết làm ăn và đã được bà con ở đây dựng bia thờ (tấm bia đó hiện còn ở Trung Mầu). Từ lâu nghề nuôi tằm ươm tơ tuy đã bị mai một nhưng vẫn còn lưu truyền trong nhân dân ta cho mãi tới ngày nay.
Năm 1976 Trung Mầu có phát triển thêm một số nghề thủ công khác như nghề nung gạch, nghề thêu ren, quại ngô... Nhiều mặt hàng được đảm bảo kỹ thuật và đã được xuất khẩu đi một số nước trên thế giới.
Trước đây Trung Mầu còn có sới Vật và lò dạy võ. Đặc biệt là Vật một thời đã nổi tiếng ở trong vùng, thanh niên họ đua nhau tham gia tập luyện vừa để nâng cao thể lực vừa vui chơi trong những ngày hội hè. Người thầy dạy võ vật đầu tiên là ông Từ Vũ (hiện còn tấm bia ở Trung Mầu)
Gà chọi, chim bay cũng là sở thích của một số người ở cả hai làng. Hàng năm Trung Mầu thường có mở hội chim, gà chọi vào tháng 4 âm lịch. Ngày hội đông lắm, người các nơi từ Chờ, Chõ, Giốt, Let, Cẩm, Lim, Khắc Liệm, Bái Uyên, Dâu, Keo... đều về đây tham dự hội.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa do có chơi gà chọi, chim bay nhà cụ Nguyễn Phú Nghi và cụ Nguyễn Xuân Đống đã có nhiều đồng chí cán bộ của Trung ương, của xứ ủy Bắc Kỳ, của tỉnh Bắc Ninh qua lại mà vẫn che mắt được quân thù.
Tuồng là một trong những hình thức nghệ thuật cổ truyền đặc sắc của dân tộc. Từ lâu ở Trung Mầu đã xuất hiện một vài gánh hát không chuyên nghệ nhân thường ngày làm ruộng, hàng năm xuân thu nhị kỳ họ tụ tập nhau lại chủ yếu vào những ngày hội hè đình đám của làng và các xã phụ cận. Một thời đã có tin gần đồn xa được bà con nhiều nơi tấm tắc khen ngợi một số kép và đào ở Trung Mầu.
Mê tín di đoan là một thói hư tật xấu của xã hội cũ, do giai cấp phong kiến đặt ra để mê hoặc và lừa bịp nhân dân ta. Cả Trung Mầu và Thịnh Liên trước kia đếm đầu ngón tay mới thấy có một vài điện thờ nhỏ và một số cây hương. Thầy bói, thầy cúng, đồng cốt... là những người làm nghề hèn hạ ở Trung Mầu thấy cũng xuất hiện rất ít.
Trung Mầu là một xã có hoàn cảnh địa lý khá đặc biệt nên có ảnh hưởng đến sự phát triển của lịch sử địa phương. Trung Mầu là một xã nằm trong địa bàn cư trú của người Việt cổ, đất đai màu mỡ có truyền thống lâu đời, phong tục tập quán lành mạnh. Cuộc sống lâu đời và đầy sáng tạo đó đã để lại cho nhân dân Trung Mầu một niềm tự hào về tổ tiên, về quê hương của mình...
(Hết chương 1 - Mời bạn ghé đọc Chương 2)
Nguồn Trường THCS Trung Mầu
Tết về miền thủy tổ Quan họ Bắc Ninh
Lễ hội Thuỷ tổ quan họ làng Viêm Xá, Bắc Ninh: Lễ hội đền Vua Bà là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất của làng Viêm Xá (Hoà Long-Yên Phong).
Kinh Bắc
Kinh Bắc là tên một địa danh cũ ở phía Bắc Việt Nam. Năm Canh Tuất, 1490, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 (đạo) xứ thừa tuyên (sau gọi là xứ, từ triều Tây Sơn tới đầu triều Nguyễn đổi sang gọi là trấn). Đến đây mới xuất hiện tên gọi các trấn (xứ), từ Nghệ An trở ra Bắc gồm: (trấn) xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam (trấn Sơn Nam Thượng, trấn Sơn Nam Hạ), Xứ Đông (trấn Hải Dương), Xứ Đoài (trấn Sơn Tây), trấn Hưng Hóa, trấn Cao Bằng, trấn An Quảng (Yên Quảng), xứ Thái Nguyên, xứ Lạng Sơn, xứ Tuyên Quang, phủ Hoài Đức (Thăng Long), đạo Thanh Bình, nội trấn Thanh Hoa, trấn Nghệ An. Tuy nhiên, tới thời vua Gia Long nhà Nguyễn, Kinh Bắc vẫn được gọi là xứ (xứ Kinh Bắc) thuộc Bắc thành tổng trấn[1].
Theo đó:
Trấn Kinh Bắc xưa gồm 4 phủ (20 huyện), hiện nay bao gồm toàn bộ ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng).
Cụ thể, đó là các phủ và huyện sau:
Cương vực
Phủ Bắc Hà
Di tích lịch sử
Kinh Bắc là nơi có 3 kinh đô cổ của Việt Nam gồm: Cổ Loa, Mê Linh và Long Biên. Kinh Bắc cùng với xứ Đoài là hai vùng văn hóa cổ nhất so với xứ Sơn Nam và xứ Đông, những vùng văn hóa lâu đời tại Việt Nam. Tại đây có nhiều di tích lịch sử có giá trị như Cổ Loa, đền Sóc, chùa Phật Tích, đền thờ Hai Bà Trưng...
Quê hương Kinh Bắc có dân ca quan họ và lễ hội Gióng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Theo đó:
Trấn Kinh Bắc xưa gồm 4 phủ (20 huyện), hiện nay bao gồm toàn bộ ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Hà Nội (toàn bộ khu vực phía bắc sông Hồng là: Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn); Hưng Yên (Văn Giang, Văn Lâm) và Lạng Sơn (Hữu Lũng).
Cụ thể, đó là các phủ và huyện sau:
- Phủ Bắc Hà gồm 4 huyện: Tân Phúc (Sóc Sơn), Kim Hoa (nay gồm Mê Linh, Đông Anh, Sóc Sơn của Hà Nội, thị xã Phúc Yên của Vĩnh Phúc), Hiệp Hoà, Việt Yên (Bắc Giang.
- Phủ Lạng Giang gồm 6 huyện: Phượng Nhãn (Lạng Giang), Yên Dũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn (đều thuộc Bắc Giang) và Hữu Lũng (thuộc tỉnh Lạng Sơn).
- Phủ Thuận An gồm 5 huyện:Gia Lâm (Hà Nội), Siêu Loại (Thuận Thành - Bắc Ninh), Văn Giang, Văn Lâm (Hưng Yên), Gia Bình, Lương Tài (Bắc Ninh).
- Phủ Từ Sơn gồm 5 huyện của Bắc Ninh: Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng. (Quế Dương và Võ Giàng nay gộp thành Quế Võ).
Cương vực
Phủ Bắc Hà
- Huyện Kim Hoa (năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) bị đổi thành Kim Anh),gồm các tổng: tổng Phù Lỗ (gồm các xã Phù Lỗ, Phù Xá, Khê Nữ, Nhạn Tái, Bắc Giã, Xuân Nộn, Tảo Mai, Thái Phù, Càn Khê, Kim Tiên, Xuân Kỳ, Liên Lý; nay thuộc phần đất các xã Nguyên Khê, Xuân Nội của huyện Đông Anh và thị trấn Phù Lỗ huyện Sóc Sơn), tổng Kim Hoa (gồm các xã Kim Hoa, Xuân Hoa, Thanh Tồi, Khả Do; nay thuộc phần đất các xã Kim Hoa, Thanh Lâm của huyện Mê Linh, xã Nam Viêm và phường Phúc Thắng của Phúc Yên), tổng Gia Thượng (gồm các xã Gia Thượng, Phù An, Chi Đông, Lâm Hộ, Giai Tạ; nay là phần đất thuộc các xã thị trấn: Thanh Lâm, Chi Đông, Quang Minh,... huyện Mê Linh), tổng Đông Đồ (gồm các xã Đông Đồ, Chu Lão, Sơn Du, Thụy Hà, Tằng My; nay là phần đất thuộc các xã Nam Hồng (Tằng My), Bắc Hồng (Thụy Hà,...), Nguyên Khê (Sơn Du) huyện Đông Anh Hà Nội), tổng Ninh Bắc (gồm các xã Ninh Bắc, Gia Hạ (Hương Gia), Nội Phật (Nội Bài), Đông Bài, Đống Mai (Mai Đình); nay là phần đất thuộc các xã Phú Cường (Hương Gia), Quang Tiến (Ninh Bắc, Nội Bài), Song Mai của huyện Sóc Sơn), tổng Cổ Bái (gồm các xã Cổ Bái, Thạch Lỗi, Thanh Nhàn, Hiền Lương, Phù Lai, Thắng Trí; nay là phần đất thuộc các xã Thanh Xuân (Thanh Nhàn, Thạch Lỗi), Hiền Ninh (Hiền Lương), Minh Trí (Thắng Trí),... huyện Sóc Sơn), tổng Quan Đình, tổng Tiên Dược, tổng Xuân Bảng. Nay là phần đất thuộc các huyện Mê Linh, Sóc Sơn của Hà Nội.
- Huyện Thiên Phúc
- Huyện Yên Việt
- Huyện Hiệp Hòa
- Huyện Yên Dũng
- Huyện Lục Ngạn, nay thuộc Bắc Giang.
- Huyện Yên Thế
- Huyện Phượng Nhãn
- Huyện Hữu Lũng, nay thuộc Lạng Sơn.
- Huyện Bảo Lộc
- Huyện Gia Lâm, gồm các tổng: Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thị, Đông Dư, Đa Tốn, Như Kinh, Cự Linh, Lạc Đạo, Cổ Biện, Nghĩa Trai. Nay là phần đất thuộc các huyện Gia Lâm Hà Nội và Thuận Thành Bắc Ninh.
- Huyện Siêu Loại
- Huyện Văn Giang, nay là huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên.
- Huyện Lang Tài, nay là huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh.
- Huyện Gia Định, năm 1823 đổi thành huyện Gia Bình.
- Huyện Đông Ngàn, gồm các tổng: tổng Hội Phụ (gồm các xã Đông Ngàn, Hội Phụ, Ông Xá, Du Lâm, Tiên Hội, Hoa Lâm, Mai Hiên, Lộc Hà; nay là các xã Đông Hội (Đông Ngàn, Hội Phụ, Tiên Hội), Mai Lâm (Du Lâm, Hoa Lâm, Mai Hiên, Lộc Hà) của huyện Đông Anh Hà Nội), tổng Hà Lỗ, tổng Yên Thường (gồm các xã Yên Thường, Trịnh Xá, Quy Mông, Xung Quán, Châu Tháp (các thôn Đa Hội, Đa Vạn), Đình Vĩ, Song Tháp; nay là phần đất thuộc xã Yên Thường huyện Gia Lâm, các xã Châu Khê (Châu Tháp), Phù Khê huyện Từ Sơn Bắc Ninh), tổng Hạ Dương (gồm các xã Hạ Dương, Ninh Giang, Hiệp Phù, Công Đình, Ninh Xuyên, Phù Ninh; nay là phần đất xã Ninh Hiệp (Ninh Giang, Hiệp Phù), Dương Hà, Đình Xuyên (Công Đình, Ninh Xuyên),... huyện Gia Lâm), tổng Dục Tú, tổng Mẫn Xá, tổng Phù Lưu (gồm các xã Phù Lưu, Đại Đình, Đình Bảng, Dương Lôi, Trang Liệt, Bính Hạ, Thụ Chương; nay là phần đất thuộc các xã Đình Bảng,... huyện Từ Sơn Bắc Ninh), tổng Phù Chẩn (gồm các xã Phù Chẩn, Phù Cảo, Phù Lộc, Phù Luân; nay là phần đất thuộc các xã Phù Chẩn,... huyện Từ Sơn Bắc Ninh), tổng Nghĩa Lập, tổng Cổ Loa (gồm các xã Cổ Loa, Lương Quán, Đường An (Đường Yên), Lỗ Giao, Lương Quy, Dục Nội, Gia Lộc; nay là phần đất các xã Cổ Loa (Cổ Loa), Việt Hùng (Lỗ Giao, Dục Nội, Gia Lộc), Xuân Nộn (Đường Yên),... huyện Đông Anh), tổng Tam Sơn, tổng Xuân Canh (gồm các xã Xuân Canh, Lực Canh, Xuân Trạch, Vạn Lộc, Mạch Tràng, Uy Nỗ Thượng, Phúc Lộc, Kinh Nỗ; nay thuộc phần đất các xã Xuân Canh (Xuân Canh, Vạn Lộc, Lực Canh, Xuân Trạch), Uy Nỗ (Uy Nỗ Thượng, Phúc Lộc, Kinh Nỗ), Cổ Loa (Mạch Tràng) của huyện Đông Anh), tổng Tuân Lệ (gồm các xã Tuân Lệ, Uy Nỗ, Uy Nỗ Trung, Vân Trì, Viên Nội, Tiên Kha, Cổ Dương, Chiêm Trạch, Phương Trạch, Ngọc Giang; nay là các xã Uy Nỗ, Vân Nội (Vân Trì, Viên Nội), Tiên Dương (Tiên Kha, Cổ Dương, Tuân Lệ), Vĩnh Ngọc (Chiêm Trạch, Phương Trạch, Ngọc Giang),... của huyện Đông Anh), . Huyện Đông Ngàn xưa, ngày nay là phần đất thuộc các quận huyện Đông Anh, Gia Lâm, Long Biên của Hà Nội.
- Huyện Quế Dương
- Huyện Tiên Du
- Huyện Võ Giàng
- Huyện Yên Phong
Di tích lịch sử
Kinh Bắc là nơi có 3 kinh đô cổ của Việt Nam gồm: Cổ Loa, Mê Linh và Long Biên. Kinh Bắc cùng với xứ Đoài là hai vùng văn hóa cổ nhất so với xứ Sơn Nam và xứ Đông, những vùng văn hóa lâu đời tại Việt Nam. Tại đây có nhiều di tích lịch sử có giá trị như Cổ Loa, đền Sóc, chùa Phật Tích, đền thờ Hai Bà Trưng...
Quê hương Kinh Bắc có dân ca quan họ và lễ hội Gióng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Quá trình thay đổi tên gọi đơn vị hành chính, địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh (10/03/2010)
Trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội, tên gọi của các đơn vị hành chính và địa giới hành chính ở Bắc Ninh có rất nhiều lần thay đổi. Trước đây, một số tác giả, như: Ngô Vi Liễn với công trình “Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc kỳ”; Đinh Xuân Vịnh với “Sổ tay địa danh Việt Nam”,... có tìm hiểu về tên làng xã Việt Nam. Nhưng những công trình này chưa giúp bạn đọc thấy được sự thay đổi địa danh, địa giới hành chính các đơn vị xã, tổng, huyện, tỉnh ở nước ta trong lịch sử.
Trên cơ sở những ghi chép của thư tịch cổ, như “Thuỷ kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên, “Đường thư” biên soạn vào đời Đường (thế kỷ VIII), “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Bản đồ Hồng Đức” (xuất hiện vào thế kỷ XV), “Các tổng, trấn, xã danh bị lãm” (biên soạn vào đầu đời Gia Long-khoảng 1808-1809), “Đồng Khánh địa dư chí” (biên soạn vào đời Đồng Khánh-1886), “Bắc Ninh dư địa chí” của Đỗ Trọng Vĩ; trên cơ sở các công trình nghiên cứu của các tác giả trước cách mạng tháng Tám năm 1945, như: “Bắc Ninh tỉnh chí” của Trịnh Như Tấu, “Địa lý hành chính Kinh Bắc” của Nguyễn Văn Huyên, “Đất nước Việt Nam qua các đời” của Đào Duy Anh; trên cơ sở các văn bản luật, văn bản qui phạm pháp luật của Nhà nước qua các thời kỳ lịch sử, và đặc biệt, dựa trên kết quả khảo sát lâu dài của mình, tác giả Nguyễn Quang Khải đã có một công trình nghiên cứu công phu về quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính của các tổng, xã, huyện của tỉnh Bắc Ninh qua các thời kỳ lịch sử.
Nhận thấy đây là một công trình nghiên cứu về địa-lịch sử có giá trị, Báo Bắc Ninh xin giới thiệu với bạn đọc công trình nghiên cứu dưới đây của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải, giúp bạn đọc phần nào thấy được sự phát triển qua các chặng đường lịch sử của tỉnh Bắc Ninh yêu quí của chúng ta.
TỔNG QUAN
Theo sách “Thuỷ Kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn thì thời Hùng Vương (2879 TNC-258 TCN) đất Bắc Ninh thuộc bộ Vũ Ninh. Thời thuộc Tần (307 TCN-206 TCN) được sáp nhập vào Tượng Quận (Trung Quốc); thời kỳ thuộc Hán (207 TCN - 39) là 2 huyện Luy Lâu và Long Biên trực thuộc quận Giao Chỉ. Thời Nam Tấn (265 - 279) là châu Vũ Ninh. Đầu thời thuộc Đường (618-721) là Châu Long. Thời Tiền Lê (980-1009) gọi là đạo Bắc Giang. Đầu thời Lý (thế kỷ XI) gọi là quận Gia Lâm.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” (tập II), tháng 2 năm Nhâm Dần (1242), vua Trần Thái Tông, chia nước ta làm 12 lộ, đất Bắc Ninh được gọi là lộ Bắc Giang, sau đó được gọi là lộ Kinh Bắc. Thời thuộc Minh (1414 - 1427) đất Bắc Ninh thuộc phủ Bắc Giang. Thời ấy, phủ Bắc Giang có 3 châu: Gia Lâm, Vũ Ninh, Bắc Giang. Trong đó, châu Gia Lâm có 3 huyện là An Định (tương đương với huyện Gia Bình bây giờ), Tế Giang (tương đương với huyện Văn Giang), Thiện Tài (tương đương với huyện Lương Tài bây giờ). Châu Vũ Ninh có 5 huyện: Tiên Du, Vũ Ninh (sau này đổi tên là Vũ Giang), Đông Ngàn, Từ Sơn, Yên Phong. Châu Bắc Giang có 3 huyện là Tân Phúc (tương đương với Đa Phúc), Thiện Thệ (tương đương với Hiệp Hòa và Việt Yên ngày nay). Hai huyện Siêu Loại và Gia Lâm trực thuộc châu Bắc Giang.
Năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1425), nhà Minh đem các huyện Yên Phong, Vũ Ninh, Yên Việt trực thuộc vào châu Bắc Giang; sáp nhập huyện Siêu Loại (tức huyện Thuận Thành sau này) và huyện Đông Ngàn vào huyện Gia Lâm; đưa các huyện: Tế Giang, Thiện Tài, Từ Sơn, Thiện Thệ trực thuộc châu Bắc Giang.
Năm Thuận Thiên thứ nhất đời Lê (1428), đất Bắc Ninh thuộc Bắc Đạo. Đời Thiệu Bình (1434 - 1439), đất Bắc Ninh thuộc Bắc Giang hạ lộ. Năm Quang Thuận thứ 7 đời Lê (1466) gọi là Bắc Giang thừa tuyên, trên cơ sở Bắc Giang thượng lộ và Bắc Giang hạ lộ. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), khi xác định và vẽ lại bản đồ cả nước, Bắc Giang thừa tuyên được đổi thành Kinh Bắc thừa tuyên. Kinh Bắc thừa tuyên khi đó có 4 phủ, bao gồm 20 huyện:
- Phủ Thuận An (năm 1862 được đổi là phủ Thuận Thành) có 5 huyện: Gia Lâm, Lương Tài, Siêu Loại, Gia Định (năm 1820 được đổi là huyện Gia Bình), Văn Giang.
- Phủ Từ Sơn có 5 huyện: Quế Dương, Võ Giàng, Tiên Du, Đông Ngàn, Yên Phong.
- Phủ Bắc Hà có 5 huyện: Tân Phúc (năm 1862 đổi là Đa Phúc), Hiệp Hòa, Kim Hoa (năm 1841 đổi là huyện Kim Anh), Yên Việt (năm 1824 đổi là huyện Việt Yên).
- Phủ Lạng Giang có 6 huyện: Phượng Nhỡn, Hữu Lũng, Yên Thế, Bảo Lộc (đầu thế kỷ XX, huyện Bảo Lộc bị giải thể, phần đất của huyện Bảo Lộc khi đó được phân về huyện Lạng Giang và huyện Lục Ngạn), Lục Ngạn (bao gồm huyện Lục Ngạn và huyện Lục Nam sau này), Yên Dũng.
Đất Bắc Ninh sau này tương đương với phủ Thuận An và phủ Từ Sơn.
Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), trong bản đồ của nhà Lê ghi tên đất này là xứ Kinh Bắc. Sau gọi là trấn Kinh Bắc.
Thời Mạc (1527-1540), cắt phủ Thuận An về trực thuộc tỉnh Hải Dương. Năm Lê Quang Hưng thứ 16 (1593) phủ Thuận An lại cắt trả về Kinh Bắc.
Năm Gia Long thứ nhất (1802) vẫn gọi là trấn Kinh Bắc. Lúc này, trấn Kinh Bắc vẫn có 4 phủ với 20 huyện như năm 1469. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi tên trấn Kinh Bắc thành trấn Bắc Ninh. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), gọi là tỉnh Bắc Ninh. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), triều Nguyễn đặt thêm 4 phân phủ là Từ Sơn, Lạng Giang, Thiên Phúc và Thuận An. Năm Tự Đức thứ 5 (1852), hai phân phủ Từ Sơn và Thiên Phúc bị bãi bỏ. Như vậy đến năm 1852, tỉnh Bắc Ninh có 4 phủ, 2 phân phủ bao gồm 20 huyện.
Từ thời Lê trở về trước, trấn lỵ của Kinh Bắc đóng ở Đáp Cầu. Năm 1804 Gia Long chuyển trấn lỵ về địa điểm tiếp giáp của 3 xã Đỗ Xá (thuộc Võ Giàng), Khúc Toại (thuộc yên Phong), Hòa Đình (thuộc Tiên Du). (Địa điểm này được đặt làm tỉnh lỵ đến năm 1963).
Năm 1876, tách một phần huyện Đông Ngàn để thành lập huyện Đông Khê (sau đổi là Đông Anh). Năm 1893, 3 tổng của huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương được nhập vào huyện Lương Tài (do huyện Thanh Lâm giải thể). Đó là các tổng: An Trụ, Hoàng Kênh, Lại Thượng. Đồng thời cắt tổng Lương Tài của huyện Lương Tài về huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên và cắt tổng An Tráng của huyện Lương Tài về huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương.
Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tại Nghị định số 1593 do toàn quyền Đông Dương Rousscau ký, tỉnh Bắc Giang được thành lập trên cơ sở tách 6 huyện từ tỉnh Bắc Ninh cũ. Đến đây, tỉnh Bắc Ninh (mới) có hai phủ (Thuận Thành, Từ Sơn) bao gồm 10 huyện: Đông Ngàn, Tiên Du, Gia Lâm, Văn Giang, Siêu Loại, Gia Bình, Lương Tài, Quế Dương, Võ Giàng, Yên Phong.
Năm 1905, tỉnh Phúc Yên được thành lập trên cơ sở tách huyện Đông Anh, Đa Phúc.
Năm 1912 huyện Siêu Loại được đổi tên là huyện Thuận Thành, huyện Đông Ngàn được đổi tên là huyện Từ Sơn. Cũng năm này tổng Đông Xá của huyện Thuận Thành được chuyển về huyện Gia Lâm tỉnh Hưng Yên.
Ngày 19 tháng 10 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định nâng cấp đơn vị hành chính thị xã Bắc Ninh lên thành phố loại III. Thành phố Bắc Ninh khi đó bao gồm toàn bộ khu vực Thị Cầu.
Tại Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước VNDCCH, ấn định nước ta có 7 thành phố, 73 đơn vị hành chính. Bắc Ninh thuộc chiến khu I.
Thực hiện Nghị định số 730-PCH ngày 28 tháng 5 năm 1946 và Nghị định sửa đổi ngày 26 tháng 7 năm 1946 của Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc bộ, thị xã Bắc Ninh được thành lập.
Từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 1 năm 1948, cả nước được chia thành 14 khu, tỉnh Bắc Ninh thuộc khu 12. Từ tháng 1 năm 1948, khu I hợp nhất với khu 12 thành liên khu Việt Bắc. Bắc Ninh thuộc Liên khu Việt Bắc.
Ngày 6 tháng 6 năm 1947, chuyển huyện Văn Lâm trước kia thuộc tỉnh Hưng Yên về khu 12 (Bắc Ninh). Ngày 28 tháng 11 năm 1948 chuyển huyện Gia Lâm về tỉnh Hưng Yên. Đến ngày 7 tháng 11 năm 1949 lại chuyển huyện Gia Lâm về tỉnh Bắc Ninh.
Tại vùng tạm chiếm, thực hiện Nghị định số 193/THP/NĐ ngày 26 tháng 1 năm 1950 của Thủ hiến Bắc Việt, tỉnh Bắc Ninh được gọi là tỉnh Gia Lâm (vì cơ quan hành chính đóng trên địa bàn Gia Lâm)
Tháng 8 năm 1950, hợp nhất hai huyện Gia Bình và Lương Tài thành 1 huyện lấy tên là huyện Gia Lương. Huyện lỵ của huyện đặt tại phố Thứa.
Ngày 26 tháng 4 năm 1951, Thủ hiến Bắc Việt ban hành Nghị định số 2198-PTH/NĐ thành lập thị xã Bắc Ninh trên cơ sở ba thị trấn: Bắc Ninh, Đáp Cầu, Thị Cầu. Chu vi thị xã Bắc Ninh: Bắc giáp Việt Yên, Nam giáp xã Phúc Đức và xã Phương Vĩ, Đông giáp Đạo Chân và xã Ngọc Đôi, Tây giáp xã Y Na và xã Cô Mễ
Năm 1958, chuyển huyện Văn Giang về tỉnh Hưng Yên.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 2 đã ban hành Nghị quyết: cắt 29 xã và một thị trấn, bao gồm: cả huyện Gia Lâm; 10 xã và 1 thị trấn của huyện Từ Sơn. Đó là các xã: Liên Hà, Vân Hà, Dục Tú, Quang Trung, Đông Hội, Mai Lâm, Tiền Phong, Đình Xuyên, Dương Hà, Ninh Hiệp, thị trấn Yên Viên (thị trấn Yên Viên được thành lập theo Nghị định số 33-NV ngày 6 tháng 2 năm 1959 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ); hai xã: Phù Đổng, Trung Hưng (sau đổi lại là Trung Mầu) của huyện Tiên Du; hai xã: Đức Thắng, Chiến Thắng (sau đổi lại là xã Dương Xá và xã Dương Quang) của huyện Thuận Thành về thành phố Hà Nội.
Năm 1962, hợp nhất 2 huyện Quế Dương và Võ Giàng thành 1 huyện lấy tên là huyện Quế Võ. Huyện lỵ của huyện Quế Võ đóng tại phố Mới.
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa II, ngày 27 tháng 10 năm 1962 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết hợp nhất 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành 1 tỉnh lấy tên là Hà Bắc. Tỉnh lỵ đóng ở thị xã Bắc Giang.
Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 25/QĐ, nhập 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn thành 1 huyện, lấy tên là huyện Tiên Sơn. Huyện lỵ đóng ở xã Vân Tương.
Ngày 4 tháng 6 năm 1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 84-CP hợp nhất huyện Tiên Sơn và huyện Yên Phong thành một huyện, lấy tên là huyện Tiên Phong; hợp nhất huyện Gia Lương với huyện Thuận Thành thành một huyện, lấy tên là huyện Gia Thuận. Nhưng hơn 4 năm sau, ngày 19 tháng 1 năm 1974, tại Quyết định số 17-CP, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn đề nghị của UBHC tỉnh Hà Bắc thôi không sáp nhập huyện Tiên Sơn với huyện Yên Phong, huyện Gia Lương với huyện Thuận Thành nữa!
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, Quốc hội Nước cộng hòa XHCN Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc chia tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh, lấy tên là Bắc Ninh và Bắc Giang. Lúc này tỉnh Bắc Ninh có 6 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 5 huyện và 1 thị xã (Gia Lương, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Sơn, Yên Phong và TX Bắc Ninh) với diện tích đất tự nhiên là 797,2 km2 và 922.210 nhân khẩu.
Ngày 11 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 68/1999/NĐ-CP tách huyện Tiên Sơn thành 2 huyện lấy tên là huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn; tách huyện Gia Lương thành 2 huyện lấy tên là huyện Gia Bình và huyện Lương Tài. Huyện lỵ Từ Sơn đóng tại thị trấn Từ Sơn, huyện lỵ Tiên Du đóng tại thị trấn Lim; huyện lỵ Lương Tài đóng tại thị trấn Thứa, huyện lỵ Gia Bình đóng tại xã Xuân Lai.
Ngày 25 tháng 01 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2001/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích đất tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bắc Ninh. Khi đó, thành phố Bắc Ninh có 26,34 km2 diện tích đất tự nhiên, 121.028 nhân khẩu và 10 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Tiền An, Ninh Xá, Vệ An, Kinh Bắc, Đại Phúc và xã Võ Cường.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành nghị định số 01/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Từ Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích đất tự nhiên và dân số của huyện Từ Sơn.
Cho đến ngày 01 tháng 4 năm 2009, tỉnh Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã. Đó là các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành, Tiên Du, Quế Võ, Yên Phong, thành phố Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn, bao gồm 1.024.151nhân khẩu, trong đó có 503.200 nam, 520.951 nữ.
Nguyễn Quang Khải
Nguồn Báo Bắc Ninh
Trên cơ sở những ghi chép của thư tịch cổ, như “Thuỷ kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên, “Đường thư” biên soạn vào đời Đường (thế kỷ VIII), “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Bản đồ Hồng Đức” (xuất hiện vào thế kỷ XV), “Các tổng, trấn, xã danh bị lãm” (biên soạn vào đầu đời Gia Long-khoảng 1808-1809), “Đồng Khánh địa dư chí” (biên soạn vào đời Đồng Khánh-1886), “Bắc Ninh dư địa chí” của Đỗ Trọng Vĩ; trên cơ sở các công trình nghiên cứu của các tác giả trước cách mạng tháng Tám năm 1945, như: “Bắc Ninh tỉnh chí” của Trịnh Như Tấu, “Địa lý hành chính Kinh Bắc” của Nguyễn Văn Huyên, “Đất nước Việt Nam qua các đời” của Đào Duy Anh; trên cơ sở các văn bản luật, văn bản qui phạm pháp luật của Nhà nước qua các thời kỳ lịch sử, và đặc biệt, dựa trên kết quả khảo sát lâu dài của mình, tác giả Nguyễn Quang Khải đã có một công trình nghiên cứu công phu về quá trình thay đổi địa danh và địa giới hành chính của các tổng, xã, huyện của tỉnh Bắc Ninh qua các thời kỳ lịch sử.
Nhận thấy đây là một công trình nghiên cứu về địa-lịch sử có giá trị, Báo Bắc Ninh xin giới thiệu với bạn đọc công trình nghiên cứu dưới đây của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải, giúp bạn đọc phần nào thấy được sự phát triển qua các chặng đường lịch sử của tỉnh Bắc Ninh yêu quí của chúng ta.
TỔNG QUAN
Theo sách “Thuỷ Kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn thì thời Hùng Vương (2879 TNC-258 TCN) đất Bắc Ninh thuộc bộ Vũ Ninh. Thời thuộc Tần (307 TCN-206 TCN) được sáp nhập vào Tượng Quận (Trung Quốc); thời kỳ thuộc Hán (207 TCN - 39) là 2 huyện Luy Lâu và Long Biên trực thuộc quận Giao Chỉ. Thời Nam Tấn (265 - 279) là châu Vũ Ninh. Đầu thời thuộc Đường (618-721) là Châu Long. Thời Tiền Lê (980-1009) gọi là đạo Bắc Giang. Đầu thời Lý (thế kỷ XI) gọi là quận Gia Lâm.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” (tập II), tháng 2 năm Nhâm Dần (1242), vua Trần Thái Tông, chia nước ta làm 12 lộ, đất Bắc Ninh được gọi là lộ Bắc Giang, sau đó được gọi là lộ Kinh Bắc. Thời thuộc Minh (1414 - 1427) đất Bắc Ninh thuộc phủ Bắc Giang. Thời ấy, phủ Bắc Giang có 3 châu: Gia Lâm, Vũ Ninh, Bắc Giang. Trong đó, châu Gia Lâm có 3 huyện là An Định (tương đương với huyện Gia Bình bây giờ), Tế Giang (tương đương với huyện Văn Giang), Thiện Tài (tương đương với huyện Lương Tài bây giờ). Châu Vũ Ninh có 5 huyện: Tiên Du, Vũ Ninh (sau này đổi tên là Vũ Giang), Đông Ngàn, Từ Sơn, Yên Phong. Châu Bắc Giang có 3 huyện là Tân Phúc (tương đương với Đa Phúc), Thiện Thệ (tương đương với Hiệp Hòa và Việt Yên ngày nay). Hai huyện Siêu Loại và Gia Lâm trực thuộc châu Bắc Giang.
Năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1425), nhà Minh đem các huyện Yên Phong, Vũ Ninh, Yên Việt trực thuộc vào châu Bắc Giang; sáp nhập huyện Siêu Loại (tức huyện Thuận Thành sau này) và huyện Đông Ngàn vào huyện Gia Lâm; đưa các huyện: Tế Giang, Thiện Tài, Từ Sơn, Thiện Thệ trực thuộc châu Bắc Giang.
Năm Thuận Thiên thứ nhất đời Lê (1428), đất Bắc Ninh thuộc Bắc Đạo. Đời Thiệu Bình (1434 - 1439), đất Bắc Ninh thuộc Bắc Giang hạ lộ. Năm Quang Thuận thứ 7 đời Lê (1466) gọi là Bắc Giang thừa tuyên, trên cơ sở Bắc Giang thượng lộ và Bắc Giang hạ lộ. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), khi xác định và vẽ lại bản đồ cả nước, Bắc Giang thừa tuyên được đổi thành Kinh Bắc thừa tuyên. Kinh Bắc thừa tuyên khi đó có 4 phủ, bao gồm 20 huyện:
- Phủ Thuận An (năm 1862 được đổi là phủ Thuận Thành) có 5 huyện: Gia Lâm, Lương Tài, Siêu Loại, Gia Định (năm 1820 được đổi là huyện Gia Bình), Văn Giang.
- Phủ Từ Sơn có 5 huyện: Quế Dương, Võ Giàng, Tiên Du, Đông Ngàn, Yên Phong.
- Phủ Bắc Hà có 5 huyện: Tân Phúc (năm 1862 đổi là Đa Phúc), Hiệp Hòa, Kim Hoa (năm 1841 đổi là huyện Kim Anh), Yên Việt (năm 1824 đổi là huyện Việt Yên).
- Phủ Lạng Giang có 6 huyện: Phượng Nhỡn, Hữu Lũng, Yên Thế, Bảo Lộc (đầu thế kỷ XX, huyện Bảo Lộc bị giải thể, phần đất của huyện Bảo Lộc khi đó được phân về huyện Lạng Giang và huyện Lục Ngạn), Lục Ngạn (bao gồm huyện Lục Ngạn và huyện Lục Nam sau này), Yên Dũng.
Đất Bắc Ninh sau này tương đương với phủ Thuận An và phủ Từ Sơn.
Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), trong bản đồ của nhà Lê ghi tên đất này là xứ Kinh Bắc. Sau gọi là trấn Kinh Bắc.
Thời Mạc (1527-1540), cắt phủ Thuận An về trực thuộc tỉnh Hải Dương. Năm Lê Quang Hưng thứ 16 (1593) phủ Thuận An lại cắt trả về Kinh Bắc.
Năm Gia Long thứ nhất (1802) vẫn gọi là trấn Kinh Bắc. Lúc này, trấn Kinh Bắc vẫn có 4 phủ với 20 huyện như năm 1469. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi tên trấn Kinh Bắc thành trấn Bắc Ninh. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), gọi là tỉnh Bắc Ninh. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), triều Nguyễn đặt thêm 4 phân phủ là Từ Sơn, Lạng Giang, Thiên Phúc và Thuận An. Năm Tự Đức thứ 5 (1852), hai phân phủ Từ Sơn và Thiên Phúc bị bãi bỏ. Như vậy đến năm 1852, tỉnh Bắc Ninh có 4 phủ, 2 phân phủ bao gồm 20 huyện.
Từ thời Lê trở về trước, trấn lỵ của Kinh Bắc đóng ở Đáp Cầu. Năm 1804 Gia Long chuyển trấn lỵ về địa điểm tiếp giáp của 3 xã Đỗ Xá (thuộc Võ Giàng), Khúc Toại (thuộc yên Phong), Hòa Đình (thuộc Tiên Du). (Địa điểm này được đặt làm tỉnh lỵ đến năm 1963).
Năm 1876, tách một phần huyện Đông Ngàn để thành lập huyện Đông Khê (sau đổi là Đông Anh). Năm 1893, 3 tổng của huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương được nhập vào huyện Lương Tài (do huyện Thanh Lâm giải thể). Đó là các tổng: An Trụ, Hoàng Kênh, Lại Thượng. Đồng thời cắt tổng Lương Tài của huyện Lương Tài về huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên và cắt tổng An Tráng của huyện Lương Tài về huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương.
Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tại Nghị định số 1593 do toàn quyền Đông Dương Rousscau ký, tỉnh Bắc Giang được thành lập trên cơ sở tách 6 huyện từ tỉnh Bắc Ninh cũ. Đến đây, tỉnh Bắc Ninh (mới) có hai phủ (Thuận Thành, Từ Sơn) bao gồm 10 huyện: Đông Ngàn, Tiên Du, Gia Lâm, Văn Giang, Siêu Loại, Gia Bình, Lương Tài, Quế Dương, Võ Giàng, Yên Phong.
Năm 1905, tỉnh Phúc Yên được thành lập trên cơ sở tách huyện Đông Anh, Đa Phúc.
Năm 1912 huyện Siêu Loại được đổi tên là huyện Thuận Thành, huyện Đông Ngàn được đổi tên là huyện Từ Sơn. Cũng năm này tổng Đông Xá của huyện Thuận Thành được chuyển về huyện Gia Lâm tỉnh Hưng Yên.
Ngày 19 tháng 10 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định nâng cấp đơn vị hành chính thị xã Bắc Ninh lên thành phố loại III. Thành phố Bắc Ninh khi đó bao gồm toàn bộ khu vực Thị Cầu.
Tại Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước VNDCCH, ấn định nước ta có 7 thành phố, 73 đơn vị hành chính. Bắc Ninh thuộc chiến khu I.
Thực hiện Nghị định số 730-PCH ngày 28 tháng 5 năm 1946 và Nghị định sửa đổi ngày 26 tháng 7 năm 1946 của Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc bộ, thị xã Bắc Ninh được thành lập.
Từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 1 năm 1948, cả nước được chia thành 14 khu, tỉnh Bắc Ninh thuộc khu 12. Từ tháng 1 năm 1948, khu I hợp nhất với khu 12 thành liên khu Việt Bắc. Bắc Ninh thuộc Liên khu Việt Bắc.
Ngày 6 tháng 6 năm 1947, chuyển huyện Văn Lâm trước kia thuộc tỉnh Hưng Yên về khu 12 (Bắc Ninh). Ngày 28 tháng 11 năm 1948 chuyển huyện Gia Lâm về tỉnh Hưng Yên. Đến ngày 7 tháng 11 năm 1949 lại chuyển huyện Gia Lâm về tỉnh Bắc Ninh.
Tại vùng tạm chiếm, thực hiện Nghị định số 193/THP/NĐ ngày 26 tháng 1 năm 1950 của Thủ hiến Bắc Việt, tỉnh Bắc Ninh được gọi là tỉnh Gia Lâm (vì cơ quan hành chính đóng trên địa bàn Gia Lâm)
Tháng 8 năm 1950, hợp nhất hai huyện Gia Bình và Lương Tài thành 1 huyện lấy tên là huyện Gia Lương. Huyện lỵ của huyện đặt tại phố Thứa.
Ngày 26 tháng 4 năm 1951, Thủ hiến Bắc Việt ban hành Nghị định số 2198-PTH/NĐ thành lập thị xã Bắc Ninh trên cơ sở ba thị trấn: Bắc Ninh, Đáp Cầu, Thị Cầu. Chu vi thị xã Bắc Ninh: Bắc giáp Việt Yên, Nam giáp xã Phúc Đức và xã Phương Vĩ, Đông giáp Đạo Chân và xã Ngọc Đôi, Tây giáp xã Y Na và xã Cô Mễ
Năm 1958, chuyển huyện Văn Giang về tỉnh Hưng Yên.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ 2 đã ban hành Nghị quyết: cắt 29 xã và một thị trấn, bao gồm: cả huyện Gia Lâm; 10 xã và 1 thị trấn của huyện Từ Sơn. Đó là các xã: Liên Hà, Vân Hà, Dục Tú, Quang Trung, Đông Hội, Mai Lâm, Tiền Phong, Đình Xuyên, Dương Hà, Ninh Hiệp, thị trấn Yên Viên (thị trấn Yên Viên được thành lập theo Nghị định số 33-NV ngày 6 tháng 2 năm 1959 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ); hai xã: Phù Đổng, Trung Hưng (sau đổi lại là Trung Mầu) của huyện Tiên Du; hai xã: Đức Thắng, Chiến Thắng (sau đổi lại là xã Dương Xá và xã Dương Quang) của huyện Thuận Thành về thành phố Hà Nội.
Năm 1962, hợp nhất 2 huyện Quế Dương và Võ Giàng thành 1 huyện lấy tên là huyện Quế Võ. Huyện lỵ của huyện Quế Võ đóng tại phố Mới.
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa II, ngày 27 tháng 10 năm 1962 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết hợp nhất 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành 1 tỉnh lấy tên là Hà Bắc. Tỉnh lỵ đóng ở thị xã Bắc Giang.
Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 25/QĐ, nhập 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn thành 1 huyện, lấy tên là huyện Tiên Sơn. Huyện lỵ đóng ở xã Vân Tương.
Ngày 4 tháng 6 năm 1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 84-CP hợp nhất huyện Tiên Sơn và huyện Yên Phong thành một huyện, lấy tên là huyện Tiên Phong; hợp nhất huyện Gia Lương với huyện Thuận Thành thành một huyện, lấy tên là huyện Gia Thuận. Nhưng hơn 4 năm sau, ngày 19 tháng 1 năm 1974, tại Quyết định số 17-CP, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn đề nghị của UBHC tỉnh Hà Bắc thôi không sáp nhập huyện Tiên Sơn với huyện Yên Phong, huyện Gia Lương với huyện Thuận Thành nữa!
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, Quốc hội Nước cộng hòa XHCN Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc chia tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh, lấy tên là Bắc Ninh và Bắc Giang. Lúc này tỉnh Bắc Ninh có 6 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 5 huyện và 1 thị xã (Gia Lương, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Sơn, Yên Phong và TX Bắc Ninh) với diện tích đất tự nhiên là 797,2 km2 và 922.210 nhân khẩu.
Ngày 11 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 68/1999/NĐ-CP tách huyện Tiên Sơn thành 2 huyện lấy tên là huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn; tách huyện Gia Lương thành 2 huyện lấy tên là huyện Gia Bình và huyện Lương Tài. Huyện lỵ Từ Sơn đóng tại thị trấn Từ Sơn, huyện lỵ Tiên Du đóng tại thị trấn Lim; huyện lỵ Lương Tài đóng tại thị trấn Thứa, huyện lỵ Gia Bình đóng tại xã Xuân Lai.
Ngày 25 tháng 01 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2001/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích đất tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bắc Ninh. Khi đó, thành phố Bắc Ninh có 26,34 km2 diện tích đất tự nhiên, 121.028 nhân khẩu và 10 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Tiền An, Ninh Xá, Vệ An, Kinh Bắc, Đại Phúc và xã Võ Cường.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành nghị định số 01/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Từ Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích đất tự nhiên và dân số của huyện Từ Sơn.
Cho đến ngày 01 tháng 4 năm 2009, tỉnh Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã. Đó là các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành, Tiên Du, Quế Võ, Yên Phong, thành phố Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn, bao gồm 1.024.151nhân khẩu, trong đó có 503.200 nam, 520.951 nữ.
Nguyễn Quang Khải
Nguồn Báo Bắc Ninh
Subscribe to:
Comments (Atom)