Wednesday, January 22, 2014

Tết Việt Nam và phong tục ngày Tết

TẾT VIỆT NAM VÀ PHONG TỤC NGÀY TẾT PDF Print E-mail

                
Tết Nguyên Đán ở Việt Nam
 
Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.
 
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.
 
Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.
 
Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.
 
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thầy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…
 
Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.
 
Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghỉ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.

Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).
 
Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!
 
                         
Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.

Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.
 
Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.
 
Source Cỏ Thơm

Friday, January 17, 2014

Liên hệ họ hàng với Ông Phan Tự Ngôn‏ - Đinh Văn Thắng

From: Tony Thang Dinh (todi_1999@yahoo.com)
Sent: Thu 1/16/14 6:59 PM
To: Thuc Dinh (dthuc@live.com)

Thắng mới vô Blog KYDV, thấy có mục thư mời các chi họ khác trong làng Dũng Vy. Thật là đáng mừng, để sau này còn biết thêm họ hàng xa gần. Thắng sẽ cố gắng thực hiện lại cuốn Gia Phả bên chi họ Đinh bên ngành của Bố Thắng (Đinh Văn Đột) rồi gửi cho Thức sau nhé.

Tiện đây Thắng cho Thức biết sự liên hệ của Thức và Cậu Ngôn để tránh chuyện hiểu lầm và tránh những chuyện không may xảy ra. Ông ngoại của Thức, và ông ngoại của Thắng và Bố Cậu Phan Tự Ngôn là anh em con chú con bác, tức là Bà Phan Thị Yêm (Mẹ của Thắng), bà Phan Thị Xin (Mẹ của Thức) và ông Phan Tự Ngôn là cháu Chú cháu Bác. Bố của Cậu Ngôn là bé nhất, do đó Thắng và Thức đều gọi ông Phan Tự Ngôn bằng "Cậu Ngôn".

Rất tiếc là Ông Ngôn không tự giới thiệu mình là ai để Thức biết đường xưng hô như Thức đã trình bày. Cậu Ngôn năm nay đã 78 tuổi ta. Thua Bố Mẹ của Thắng và Thức cả hơn một con giáp. Thắng chưa có dịp gặp Cậu Ngôn, nhưng được Mẹ kể về Cậu Ngôn nhiều lần, và cũng nói chuyện ĐT dăm ba lần. Thức có thể hỏi Dì Cuông để xác minh sự liên hệ họ hàng. Nhớ hỏi là Cậu Ngò (sau này đổi tên là Phan Tự Ngôn). Còn Gia phả họ Phan, Thắng đang yêu cầu Cậu Ngôn thành lập và hỏi thêm ý kiến của Mẹ Thắng và Mẹ Thức, vì hai bà còn minh mẫn lắm, còn Dì Chỉ thì đã yếu nhiều rồi, và không còn minh mẫn như Bà Yêm và Bà Xin nữa. 

Talk to you later.
Thắng
-----------

From: Thuc Dinh (dthuc@live.com)
Sent: Fri 1/17/14 10:43 AM
To: Thang Tony Dinh Van (todi_1999@yahoo.com)

Hi Thắng

OK. Khi nào xong gia phả thì cứ gởi cho Thức. Nếu các tộc họ trong làng đều có gia phả thì hay quá (có khi anh em đánh nhau vỡ đầu mà không biết).

Hồi nào tới giờ không nghe ai nói về ông Ngôn nên Thức không biết. 78 tuổi là đã già lắm mà vẫn còn thích "nói chuyện chơi". Cho Thức gởi lời vấn an sức khỏe. Hy vọng ông sẽ thực hiện gia phả Họ Phan để đồng hương có thể hiểu biết thêm về Dũng Vi và những liên quan họ hàng gần xa.

Bye. See U.
Thức Đ.

Thursday, January 16, 2014

Gia phả các tộc họ trong làng Dũng Vi

Thưa quý đồng hương

Qua ý kiến đóng góp của ông Phan Tự Ngôn về gia phả. Trong làng Dũng Vi còn có nhiều chi họ ngoài họ Đinh (ngay cả họ Đinh cũng có nhiều chi).

Nếu quý vị đồng hương Dũng Vi muốn phổ biến thêm những gia phả của các tộc họ trong làng, xin gởi về Blog KYDV qua Email dthuc@live.com - Blog KYDV sẽ rất hân hạnh phổ biến để quý đồng hương cùng rõ.

Blog KYDV

Tản mạn về “ngôi nhà chung” của làng

Thứ sáu, 27/12/2013 - 09:32
 
Tản mạn về “ngôi nhà chung” của làng
 
Đình làng giống như “ngôi nhà chung” của một cộng đồng làng xã mà ở đó lòng dân luôn được quy tụ, gắn kết. Bắc Ninh không chỉ tự hào vì được mệnh danh là “xứ sở của đình, đền, chùa, miếu” mà còn có những ngôi đình đẹp nổi tiếng, được dân gian ngợi ca, truyền tụng qua những câu ca dao:
 
Thứ Nhất là đình Đông Khang,
Thứ Nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm.…
 
Đình Đình Bảng (thị xã Từ Sơn) là một trong những ngôi đình đẹp nổi tiếng xứ Bắc.

Những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở làng hẳn khắc sâu hai âm thanh đặc biệt xúc động là tiếng chuông chùa và tiếng trống đình. Đình làng và chùa làng là biểu tượng của văn hóa làng xã gắn bó với người nông dân Việt. Nếu như vị trí tọa lạc của chùa làng không cần quá câu nệ, thường được xây dựng ở nơi thanh vắng, tĩnh mịch có thể là góc làng, ven làng hoặc giữa làng thì vị trí của đình làng nhất định phải được cất dựng trên thế đất phong thủy, nơi cao ráo, phong quang nhất làng. Bởi, trong tâm thức dân gian, ngôi đình là phúc phận của cả làng nên mới  có câu “Toét mắt là tại hướng đình/Cả làng toét mắt chứ mình em đâu”. Còn theo như nhà nghiên cứu văn hóa Lý Khắc Cung từng phân tích: “Đình làng là một tập hợp kiến trúc mở chứ không khép kín như chùa. Ở đình làng diễn ra mọi hoạt động chung của làng: từ hội họp, bàn bạc công việc, tổ chức hội hè, lễ tết, diễn xướng nghệ thuật cho đến thực thi lệ làng như: khao thọ, thu thuế, xét xử, phạt vạ… Tất cả công việc lớn nhỏ của làng đều được quyết định tại đình. Chính vì vậy, đình thường không có tường bao quanh. Từ bốn phương, tám hướng đều có thể đến với đình. Nội thất, ngoại thất của đình đều được trang trí nguy nga, độc đáo”.
 
Bộ cửa võng được chạm khắc tinh xảo làm nên sự vẻ vang của đình Diềm (xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh.)

Tìm hiểu lịch sử đình làng được biết, vốn xưa đình làng chỉ là đình trạm-nơi dừng chân của khách bộ hành, trong đó có cả vua, quan đi vi hành, tuần du và mọi người dân thường khác. Nhưng đến thời Lê Sơ (khoảng thế kỷ XV), nhân dân bắt đầu đưa các vị thần của làng vào thờ trong đình. Kể từ đó, đình làng vừa là nơi “hội sở thần thánh”, vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng làng xã. Đó là một ngôi nhà chung của cả làng, nơi quy tụ, gắn kết cộng đồng dân cư. Đình làng đã trở thành bản sắc văn hóa và là di sản vô giá của dân tộc. Có một nhà nghiên cứu về Mỹ học người nước ngoài đã nói: “Đến Việt Nam mà chưa thăm những ngôi đình làng là chưa biết gì về Việt Nam”. Như vậy, đình làng Việt không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc dân gian mà còn là nơi lưu dấu, chứa đựng hồn cốt dân tộc với những giá trị về lịch sử, văn hóa, truyền thuyết, huyền thoại, thần tích, sắc phong… 
  
Bắc Ninh vốn là trung tâm văn hóa của người Việt cổ, là vùng đất có bề dày văn hiến nên hầu hết các làng đều có đình. Ở Bắc Ninh, đình làng phát triển rực rỡ nhất vào thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVII-XVIII). Về tổng thể, đình làng ở Bắc Ninh cũng giống như bao ngôi đình làng Việt khác, vừa là nơi thờ các vị thần thánh là những người có công khai khẩn, mở đất lập làng, giữ nước, giúp dân trong mọi lĩnh vực, các anh hùng chống giặc ngoại xâm, các vị tổ nghề… vừa là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân trong làng. Trong số hàng trăm ngôi đình trên địa bàn tỉnh thì đã có 237 ngôi đình được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa, trong đó, 67 di tích cấp Quốc gia và 170 di tích cấp tỉnh (tính đến ngày 1-9-2013). Đặc biệt, ở Bắc Ninh còn có những ngôi đình đẹp nổi tiếng, được dân gian ngợi ca: “Thứ Nhất là đình Đông Khang, thứ Nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm…”. Bà Đỗ Thị Thủy, Phó Giám đốc Ban Quản lý di tích tỉnh cho biết thêm, đình làng ở Bắc Ninh còn mang đặc điểm nổi bật về sự dung hội nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Nghĩa là, một ngôi đình không chỉ thờ một vị thần mà có thể thờ 5, 7 vị thần của làng. Hoặc cũng có những ngôi đình lớn với kiến trúc “tiền Thần hậu Phật”, bởi người được thờ vừa là Thần vừa là Phật mà Tứ Pháp ở vùng Dâu (Thuận Thành) là một minh chứng. Dấu tích vẫn còn ghi rõ trong những sắc phong là: “Đại Thánh Pháp Vân Phật/Đại Thánh Pháp Vũ Phật/Đại Thánh Pháp Lôi Phật/ Đại Thánh Pháp Điện Phật…” 
  
Giá trị, vai trò của ngôi đình làng Việt không thể phủ định và chắc chắn nó sẽ còn tồn tại mãi mãi với tư cách là một yếu tố văn hóa, lịch sử. Nhưng trước xu hướng đô thị hóa, trong đó có cả tác động của con người từ những công cuộc trùng tu, tôn tạo khiến không gian văn hóa đình làng đang dần bị biến dạng, mai một. Nói như vậy vì bây giờ ở nhiều địa phương, đình làng thường chỉ được xem như một di tích với vai trò là một nơi thờ tự các vị Thành Hoàng làng, còn chức năng quy tụ, gắn kết thành viên trong cộng đồng lại chưa được chú ý đến nhiều. Vì lẽ đó, muốn bảo tồn và phát huy giá trị đình làng mà chỉ tập trung vào việc xây dựng, trùng tu, tôn tạo về mặt kiến trúc vật chất thì chưa đủ, cần phải để cho ngôi đình thực sự sống trong không gian văn hóa làng xã, vừa là nơi thờ tự tôn nghiêm nhưng cũng là nơi sinh hoạt chung của người dân. Có như thế, đình làng mới được bảo tồn đúng nghĩa là ngôi nhà chung của làng. 
  
Bài, ảnh: Thuận Cẩm