Saturday, November 9, 2013

Đại Vi - Đất nghề dựng nhà cổ

Thứ Tư, 23/11/2011 - 15:18
 
Đại Vi - Đất nghề dựng nhà cổ
 
Những nếp nhà xưa hoài cổ, lớp ngói nâu bạc màu lãng đãng trong sương như ghi dấu bước thời gian chầm chậm. Âm thanh của tiếng bào, tiếng đục và mùi hương của các loại gỗ… đã hòa tan, thổn thức trong tiềm thức bao thế hệ trai làng Đại Vi.
 
Trong các làng nghề làm nhà gỗ cổ nổi tiếng ở vùng Kinh Bắc, chẳng nơi nào sánh kịp đôi bàn tay tài hoa, khéo léo của những người thợ làng Đại Vi, xã Đại Đồng (Tiên Du). Đời trước truyền lại đời sau, bao lớp trai làng nơi đây đã dựng xây, trùng tu hàng trăm ngôi đình, chùa, lăng tẩm, thuỷ đình... cổ kính, uy nghi giữ gìn và tỏa sáng tinh hoa văn hóa Việt

Dưới gốc đa, nghe bà lão quán nước kể: Đất ao đình Đại Vi hình cái cưa, đường vào làng trông như ống mực, lối hai bên đình tựa như chiếc bào. Vì thế dù ai đi ngược về xuôi, cứ đến ngày 1-2 (Âm lịch) hàng năm đều  trở về quê vui hội, tế lễ nghiêng mình trước thành Hoàng làng có công khai sáng mở nghề mộc. Người làng Đại Vi vốn sống chan hoà, còn lưu giữ cho mình những nếp nhà xưa hoài cổ. Các dãy nhà ngói bạc màu lãng đãng trong sương như ghi dấu thời gian chầm chậm. Đôi chân chúng tôi lạc bước vào ngôi làng Việt cổ.

Một ngôi nhà gỗ kiến trúc cổ 5 gian kiểu “tiền kẻ hậu bẩy” tọa lạc giữa làng. Mỗi ngày có vài khách nơi xa về chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngôi nhà, lần tay lên những cột nhà để cảm nhận thăng trầm cuộc đời trong từng thớ gỗ và nghe tiếng vọng của thời gian. Chủ nhân của ngôi nhà là ông Nguyễn Thế Quang, một trong những nghệ nhân nổi tiếng của làng. Ông Quang tâm sự: “Từ nhỏ nghe âm thanh của tiếng bào, tiếng đục; mùi hương của các loại gỗ… đã hòa tan, chảy trong tôi. Ấy vậy nhưng đến với nghề mộc cũng muộn mằn. Sau khi tốt nghiệp trung cấp xây dựng Hà Bắc tôi về Ty Giao thông công tác được 3 năm, rồi trở về quê học nghề nối nghiệp. Suốt 30 năm vác cưa, đục, bào đi khắp các vùng quê dựng nếp nhà xưa, khiến tôi càng thêm thấm thía và nặng tình với nền văn hóa dân tộc. Kiến trúc nhà gỗ truyền thống đóng vai trò quan trọng trong đời sống người dân. Ở đó có tình làng, nghĩa xóm, sự trân trọng và tôn thờ giá trị lịch sử”. Với ông ngoài những thành công trong phục dựng, trùng tu khu di tích đền Đô, thủy đình Lũng Giang thì chuyến sang Malaixia năm 2004 để dựng ngôi nhà cổ trong khu du lịch các nước Asean là kỷ niệm đáng nhớ nhất. Kíp thợ của ông gồm 22 người. Công việc của thợ thi công nhà cổ đã bắt đầu từ trước đó với việc tháo từng cây cột, vỉ kèo,... của ngôi nhà ra, đánh số để dễ dàng vận chuyển từ Việt Nam sang Malaixia. Trong vòng 1 tháng miệt mài, những người thợ tài hoa Đại Vi đã lắp ráp hoàn thiện ngôi nhà cổ mang hồn cốt văn hoá Việt. Đó không chỉ là vinh dự mà còn là niềm tự hào của những chàng trai tay rìu, tay đục đất Đại Vi góp sức mình mang văn hoá Việt quảng bá hình ảnh cho bạn bè bốn phương chiêm ngưỡng.

Ngôi nhà gỗ 5 gian kiểu “tiền kẻ hậu bẩy” ở Đại Vi.

Nhịp sống hiện đại đang từng ngày biến đổi một cách nhanh chóng, đời sống của con người lại càng đề cao các giá trị tiện ích. Xu thế thời thượng được bộc lộ rõ qua xây dựng kiến trúc hiện đại, các ngôi nhà cao tầng, bê tông hóa phát triển. Vì thế đã một thời giá trị văn hóa kiến trúc của dân tộc đang bị bào mòn bởi những bước đi của thời gian. Nghề mộc làng Đại Vi những năm 90 của thế kỷ trước dường như bị “lãng quên”.  Những nghệ nhân già thấy tiếc nuối và ưu phiền về cái thời vàng son: Lúc mà các lớp trai làng đi khắp nơi nhận công trình xây dựng từ đình, đền, chùa đến nhà gỗ... Ngồi nghe câu chuyện của ông Đỗ Đăng Tuyên, 80 tuổi, là chàng thợ bóng cả của làng, mới cảm nhận nỗi niềm cả đời tâm huyết với nghề. Là đời thứ 3 trong một gia đình làm nghề mộc, từ năm 15 tuổi ông đã theo cha học cách lẩy mực uốn đao và chạm khắc những hoa văn, họa tiết cho các cột, kèo của nhà cổ. Trong quá trình xây dựng đình, đền khó khăn và phức tạp nhất là công đoạn uốn đao. Đó là “linh hồn” thành hay bại của người thợ. Cả làng Đại Vi bây giờ chỉ có 3 người làm được đao đình. Theo ông Tuyên thì lẩy mực là yếu tố quyết định thành công. Gần một đời cầm dây nẩy mực ông và các người thợ trong làng đã làm ra hàng trăm ngôi đình, mái đền cổ kính. Cầm chiếc đục uốn nắn đứa cháu nội học nghề, ông Tuyên khề khà: “Với nghề làm nhà cổ nếu chỉ cần cù, kiên nhẫn thôi chưa đủ, người học nghề phải có niềm đam mê, óc sáng tạo phác họa theo những đường nét uyển chuyển trên từng thớ gỗ. Một thợ lành nghề phải ít nhất 5 năm theo học mới thành nghề”. Ông Tuyên được nhiều nơi biết đến vì góp sức trùng tu và sáng tạo trong quần thể di tích cung đình Huế ròng rã suốt 3 năm (năm 1994-1995). Ông Tuyên cho biết: “Đưa 15 anh em vào Huế nhận việc, di tích lịch sử văn hóa quốc gia có rất nhiều phần xuống cấp, không còn nguyên vẹn. Hơn nữa mỗi hạng mục từ lăng Gia Long đến lăng Tự Đức... kiến trúc khác nhau. Lúc đầu cũng thấy lo lắng, tôi chỉ đạo cánh thợ phải tìm hiểu kỹ lưỡng sự giao thoa văn hoá Việt với kiến trúc hiện đại, vừa làm vừa tìm tòi sửa chữa và trùng tu phục dựng lại để tạo được sự hài hòa giữa hai yếu tố truyền thống và hiện đại, làm sao để yếu tố cổ được bảo tồn một cách tốt nhất đồng thời lại hòa nhập với cuộc sống hiện đại để vừa phát huy giá trị văn hóa vốn có của di sản vừa tạo được hiệu quả kinh tế xã hội. Chính điều này, được Ban quản lý di tích chấp thuận và đánh giá cao...”.

Ngày nay, Đại Vi còn gần 10 cánh thợ (mỗi cánh thợ khoảng 8-15 người) gìn giữ và phát huy nghề cổ truyền. Với họ, giữ lửa làng nghề không chỉ là công việc kiếm sống mà còn là trách nhiệm với nguồn cội. Nhà ông Tuyên, 3 thế hệ chung lưng đấu cật bên nhau phát triển nghề. Anh Đỗ Đăng Lâm (con trai ông Tuyên) cho biết: “Mỗi khi nhận làm đình, chùa, đền... chúng tôi rất cẩn trọng và luôn cố gắng hết mình với những giá trị lịch sử của từng địa phương. Công việc đòi hỏi nhiều công phu và tỉ mỉ”.

Dời Đại Vi, nhìn mái đình cong cong soi bóng ao làng, hình ảnh những chàng trai lưng trần đang miệt mài đục đẽo với niềm tin và khát vọng xây dựng thương hiệu chuyên làm nhà cổ độc đáo, sáng tạo trong xu thế hội nhập kinh tế.

Ghi chép của ĐỖ XUÂN-VĂN PHONG

Source Bac Ninh Online

Hội chợ sắc màu làng nghề ở Bắc Ninh

Thứ sáu, 18/10/13, 08:05 GMT+7
 
300 gian hàng với những sản phẩm truyền thống bằng các chất liệu đồng, gốm, tre, đá quý được trưng bày tại Hội chợ sắc màu làng nghề Bắc Ninh.
 
Từ ngày 17 đến 23/10, tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh, UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội chợ triển lãm "Sắc màu làng nghề Bắc Ninh 2013".
 
Sự kiện này nhằm tôn vinh sản phẩm đặc sắc của các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, hiệp hội, làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tỉnh Bắc Ninh và khu vực.
 
langnghe.jpg
Bắc Ninh nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống như tre trúc Xuân Lai, gốm Phù Lãng, tranh Đông Hồ. Ảnh: tin
 
Trên diện tích 3.000m2, 300 gian hàng của 10 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó có 50 gian hàng của tỉnh Bắc Ninh trưng bày sản phẩm của các làng nghề truyền thống như: Đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ, gỗ Đồng Kỵ, tre trúc Xuân Lai, gốm Phù Lãng.
 
Những sản phẩm đặc sắc của các làng nghề, ngành nghề thủ công truyền thống Việt Nam, sản xuất bằng nhiều chất liệu như: đồng, gốm, tranh tre, gỗ mỹ nghệ, đá quý, đồ trang sức... được trưng bày ở những gian chính của hội chợ. Bên cạnh đó còn có các gian trưng bày các sản phẩm máy móc thiết bị, điện tử, viễn thông, thiết bị nghe nhìn, phương tiện vận tải...
 
Hội chợ Sắc màu làng nghề Bắc Ninh 2013 là nơi giới thiệu, quảng bá sản phẩm, thúc đẩy hợp tác phát triển văn hóa, du lịch giữa tỉnh Bắc Ninh với các tỉnh trong cả nước; đồng thời liên kết sản xuất, cung ứng vật tư, thiết bị, nguyên vật liệu để sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
 
Anh Phương
 
Source VnExpress

Thursday, November 7, 2013

Se Chỉ Luồn Kim - Dân ca Quan họ Bắc Ninh



andy82andy82
Uploaded on Dec 20, 2010

Cổ vật Bắc Ninh - Dấu ấn chiều sâu văn hóa (07/01/2010)

Với những đá, đồng, gốm, sứ, gỗ, kẽm, giấy… mang trên mình dấu ấn của thời gian, 1.200 hiện vật tại cuộc trưng bày “Cổ vật tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh” lần thứ Nhất diễn ra tại Bảo tàng tỉnh cuối năm 2009 đã đem đến cho người xem nhiều cảm nhận khác nhau về chiều sâu văn hoá Kinh Bắc.

Ai đó từng nói, cổ vật là một phần của lịch sử và văn hoá. Nhưng không phải ai cũng nhận thấy rõ giá trị đích thực của nó vì đồ cổ thường là các mảnh vỡ, dị tật, vẻ ngoài xấu xí, xù xì. Ví như, có 2 mảnh khuôn đúc trống đồng được các nhà khảo cổ phát hiện ở Luy Lâu, nhìn vẻ ngoài chẳng khác gì hai cục đất nung nhỏ con, nham nhở nhưng đã có tới 4 nhà khảo cổ đầu ngành của đất nước mang về trao tận tay cho Bảo tàng tỉnh. Bởi đó chính là một báu vật minh chứng thuyết phục rằng Trống Đồng được đúc tại Việt Nam, của Việt Nam và do người Việt Nam đúc ra chứ không phải ở bất cứ một quốc gia nào khác. Những cổ vật thể hiện rõ nhất nét đặc trưng cơ bản của văn hoá vùng Kinh Bắc chính là hơn 150 hiện vật đồ đá tìm thấy ở lòng sông Cầu, đồ gốm Hán tập trung nhiều ở vùng Luy Lâu (Thuận Thành), bộ sưu tập tiền cổ từ triều Đinh cho đến bây giờ của nhà sưu tầm và nghiên cứu Nguyễn Văn Thạo hay như đồ sứ từ thời phong kiến Trung Quốc cũng được các nhà sưu tập, nghiên cứu tìm thấy nhiều ở Bắc Ninh. Đặc biệt, chiếc chuông đồng ở chùa Ngũ Hộ, xã Kim Chân (TP Bắc Ninh), trước năm 1945 bị đưa sang và lưu lạc tại Nhật Bản, năm 1978, Hội hữu nghị Nhật Bản - Việt Nam đã tổ chức vận động trao trả lại cho Việt Nam. Qua đó, chứng tỏ cổ vật không chỉ thấm đẫm giá trị lịch sử, văn hoá và mỹ thuật mà còn thể hiện sâu sắc tình hữu nghị ngoại giao hai nước, mang ý nghĩa chính trị cao. Hầu hết cổ vật có nguồn gốc, xuất xứ từ kho lưu trữ của Bảo tàng Bắc Ninh được sưu tầm từ những thập kỷ 60 của thế kỷ XX đến nay trên địa bàn Bắc Ninh – Kinh Bắc và của các nhà sưu tầm, nghiên cứu cổ vật Kinh Bắc. Ngoài cổ vật của Việt Nam, phòng trưng bày còn có những cổ vật có nguồn gốc từ Trung Hoa, Nhật Bản... trong trường kỳ lịch sử giao lưu văn hóa giữa các dân tộc đã được giữ gìn, bảo tồn đến ngày nay.

Trong số hàng nghìn lượt khách đến bảo tàng tỉnh để tham quan, chiêm ngưỡng cổ vật, một nhiếp ảnh gia người Pháp – ông Jobet đã chia sẻ: Tình cờ biết ở Bắc Ninh có cuộc Trưng bày cổ vật qua một chương trình truyền hình, ngay sau đó tôi đề nghị vợ cùng tìm về đây để tham quan, chiêm ngưỡng. Tôi đặc biệt thích vẻ đẹp cổ kính, rêu phong của các ngôi đình và đền chùa Việt Nam. Còn với cổ vật, vốn tự thân nó đã mang vẻ đẹp hiếm và độc đáo. Đến đây, tôi mong muốn qua các cổ vật tìm hiểu về vẻ đẹp cũng như quan điểm mỹ thuật của người Việt  trong quá khứ.
 


Bộ sưu tập Lọ Đầm xoè bằng đồng,  thế kỷ I-III.

Để tổ chức thành công cuộc trưng bày ý nghĩa này, Bảo tàng tỉnh – đơn vị thường trực được giao phụ trách đã có phương pháp triển khai khá hiệu quả. Vì khi chuẩn bị cho trưng bày, Hội Sưu tầm và nghiên cứu cổ vật chưa thành lập nên công tác vận động các nhà sưu tầm được đặt lên hàng đầu. Ngoài lợi thế về phương tiện trưng bày khá đầy đủ và chuyên nghiệp của Bảo tàng tỉnh, các nhà sưu tầm đều rất nhiệt tình với hoạt động này cũng là thuận lợi để hiện vật tại cuộc trưng bày thêm phong phú. Công tác vận động các nhà sưu tầm tham gia sự kiện này cũng chính là kinh nghiệm để Bảo tàng Bắc Ninh tiếp tục áp dụng trong những lần sau. Cùng với cán bộ Bảo tàng tỉnh, một số người có tiếng trong giới sưu tầm, nghiên cứu cổ vật trong tỉnh đã đến tận nhà các nhà sưu tầm để giám định đồng thời lập hồ sơ khoa học cho cổ vật, một cách phân loại nhằm tránh sự trùng lặp khi trưng bày. Và cũng là một cách để hoá giải điều lo lắng nhất của BTC về sự bảo đảm an toàn cho cổ vật trong quá trình diễn ra cuộc trưng bày. Ban đầu, đây cũng là vấn đề đáng ngại nhất bởi nước ta chưa có bảo hiểm cổ vật, trong khi đó nhiều hiện vật có giá trị kinh tế cao, song với sự nhiệt tình, vô tư của các nhà sưu tầm và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ, nhân viên, mọi việc đã diễn ra suôn sẻ với độ an toàn tuyệt đối. Lần đầu tiên tổ chức trưng bày quy mô lớn với nhiều cổ vật có giá trị văn hoá, lịch sử cũng như kinh tế, Bảo tàng tỉnh đã chuẩn bị chu đáo công tác an ninh: Gắn 2 camera quan sát, 2 vòng bảo vệ với lực lượng chuyên nghiệp và cán bộ, nhân viên Bảo tàng trực 24/24 giờ.

5 ngày là thời gian ít so với số lượng và giá trị các cổ vật trong cuộc trưng bày lần này. Những người làm công tác tổ chức cũng bày tỏ sự tiếc nuối khi chưa thực hiện việc quảng bá, tuyên truyền sớm để đông đảo người dân tìm đến. Vì lẽ đó, mặc dù có hàng nghìn lượt người đến xem song vẫn còn rất nhiều người không đến được với cuộc trưng bày. Dẫu vậy, có thể nói, cuộc Trưng bày cổ vật tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh là dịp để người dân tìm lại quá khứ, hiểu rõ hơn về chiều dài văn hoá lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung và vùng Kinh Bắc nói riêng. Đặc biệt, những hiện vật ấy còn cho thấy sự tài hoa, khéo léo cùng với sức sáng tạo phi thường của cha ông xuyên suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc từ văn hoá Đông Sơn, Phùng Nguyên đến nay, để mỗi người dân Bắc Ninh – Kinh Bắc thoả sức tự hào với truyền thống văn hiến của quê hương.

Sân chơi cho người yêu cổ vật

Ông Nguyễn Việt Dũng, 42 tuổi, đường Thiên Đức, Vệ An, thành phố Bắc Ninh

Tôi yêu thích sưu tầm từ nhỏ nhưng phải từ 10 năm nay mới có điều kiện thực hiện niềm đam mê ấy. Công việc chính là kinh doanh nên tôi đi nhiều nơi, do đó thu thập được một số lượng khá lớn cổ vật. Hiện tại tôi sở hữu khoảng 700 hiện vật, trong đó tôi đặc biệt đam mê gốm thời Lý - Trần, nếu tính riêng Thạp hai triều đại này tôi có 10 chiếc lớn, nhỏ. Tôi nghĩ việc ra đời của Hội sưu tầm và nghiên cứu cổ vật Kinh Bắc sẽ giúp những người yêu đồ cổ như tôi có một sân chơi để giao lưu đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu cổ vật.

Tôi tâm đắc bộ sưu tập tiền từ thời Đinh đến nay

Ông Nguyễn Văn Thạo 44 tuổi, phố Nguyễn Huy Tưởng, Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh

Hồi nhỏ khi còn đi học tích luỹ bút viết các loại, tôi đã nghĩ mình sẽ theo đến cùng niềm đam mê sưu tầm. Giờ đây, sau hơn 10 năm đi khắp nơi và thu thập tất cả những gì tôi nghĩ là cổ, quý, tôi càng củng cố “tình yêu” của mình với cổ vật. Từ Thái Nguyên cho đến Bắc Kạn, Lạng Sơn... tôi đã “lượm lặt” cho mình được hàng trăm cổ vật, trong đó tôi đặc biệt tâm đắc bộ sưu tập tiền đầy đủ các triều đại từ nhà Đinh đến nay. Vì yêu thích cổ vật nên tôi tự tìm tòi trong sách báo và học hỏi các nhà nghiên cứu để hiểu nhiều, hiểu sâu và đánh giá chính xác giá trị của cổ vật.

Chơi đồ cổ là tìm về vẻ đẹp của mỹ thuật quá khứ

Ông Dương Minh Chính, đường Nguyễn Gia Thiều, TP Bắc Ninh.

Đối với tôi, chơi đồ cổ là tìm về vẻ đẹp của mỹ thuật trong quá khứ và sưu tập đồ cổ chính là sưu tập mỹ thuật cổ. Sau 20 năm sưu tầm đủ loại đồ cổ như: đồ đá, đồng, đất nung, sứ, gốm… dần tôi thấy say mê đồ đồng và đồ đá hơn cả bởi nó không những có giá trị lịch sử về thời gian mà còn mang vẻ đẹp hấp dẫn đặc biệt, hiếm và độc đáo. Hiện tôi đang sở hữu hơn 200 hiện vật đồ đá và đó là thế mạnh của tôi. Việc sưu tầm và nghiên cứu của tôi có nhiều thuận lợi vì vợ tôi là một người rất gần gũi, thích đồ cổ và có trình độ chuyên môn về ngành bảo tồn bảo tàng. Việt Nam có một nền văn minh đồ đá cực kỳ rực rỡ nhưng số người thích sưu tầm và nghiên cứu về đồ đá ở nước ta còn hạn chế bởi dòng hiện vật này khó chứng minh được thời gian, niên đại. Vì thế, ấp ủ lớn nhất của tôi là cố gắng làm sao xác định được địa chỉ - nơi phát hiện ra đồ vật, từ đó tôi sẽ tìm hiểu độ phong hóa, bề mặt thời gian và liệt kê đầy đủ lý lịch quá khứ của hiện vật để chứng minh cho mọi người, nhất là các nhà khoa học khảo cổ đầu ngành trong nước đồng thuận, công nhận giá trị các cổ vật mà tôi đang có.