Saturday, February 2, 2013

LÀNG TÔI (Đoạn 1)

LÀNG TÔI

“Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lơ lững vờn quanh...”

I - Ve

Tên cũ của làng Dũng Vy ngày nay, thuộc xã Tri Phương, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Cảnh quan ở Ve thuộc loại biểu trưng ở làng quê miền Bắc “có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lơ lững vờn quanh” có lũy tre bao bọc, một quần cư gồm “hai thôn chung một làng” và ngôi đình cổ kính khá đẹp, mới được công nhận là di sản văn hóa quốc gia. Đặc biệt lại có cả ngôi giáo đường ngạo nghễ vươn lên đúng vào thời điểm bùng nổ cuộc chiến thứ hai (1939).

Tại sao Ve ? Thử đưa ra một cách giải thích nguồn gốc danh xưng này.

Thuở xa xưa, khi đường xá còn trong tình trạng sơ khai, Ve là một vùng sâu, vùng xa (ve kêu vượn hót) hẻo lánh, nằm lọt thỏm giữa cánh đồng khá rộng lớn, có vị trí tự nhiên trải dài từ chân núi Chè ở phía Bắc qua Đồng Lạng, Ve... đến Trung Mầu, Phù Đổng ở phía Nam. Phía Đông là Cao Đình, Đền Xộp và phía Tây giáp Đại Vy... chợ Giầu bên quốc lộ 1. Nếu kẻ một trục thẳng đứng (tung) hướng Bắc-Nam từ núi Chè xuống Phù Đổng và hướng Đông-Tây từ Cao Đình đến quốc lộ 1 (hoành) thì Ve nằm ở vùng giữa hai trục. Nói một cách hình tượng. Ve là cái túi, cái rốn của vùng này.

Khi tổ tiên chúng ta tới đây lập nghiệp khung cảnh còn hoang sơ, cây cối rậm rịt. Nơi đây qui tụ nhiều muông chim hoang dã, trong đó có giống ve sầu, một loài sâu có cánh chuyên sống trên các ngọn cây cao hoặc bụi rậm. Hàng năm, cứ vào đầu mùa Hè, chúng cất cao “tiếng gọi tình thương” mở đầu thời kỳ “vui vẻ” để duy trì nòi giống. Cuộc tình ầm ĩ này vốn kéo dài đến ngày nay, dầu chỉ là rơi rớt, dư âm của một thời vang bóng.

Phải chăng tiếng ve-ve inh ỏi suốt mùa Hè đã khiến cha ông chúng ta, vốn đơn sơ chất phác lấy nó đặt tên cho nơi mình sinh sống là xóm Ve, làng Ve ?

Đây chỉ là giả thiết. Mong các bạn và các bậc cao tuổi tại quê nhà tìm hiểu, xác minh.

Nhân tiện xin mở rộng vấn đề: xung quanh Ve còn nhiều địa danh khác, cũng cần được tìm hiểu như Đền Vua, Mả Chúa, Đồng Thần... đền thờ vua nào, thời nào ? Tại sao nay không còn dấu tích ? Mả Chúa, Đồng Thần cũng vậy. Khi tôi có trí khôn, những địa danh này chỉ là những bãi đất hoang, không đền miếu, không mồ mả, không trồng trọt, trừ Đồng Thần. Tại sao vậy ?

Tuy là cái rốn của vùng, Ve có lợi thế về giao thông thủy bộ.

Thật vậy, con đường độc đạo liên thôn, liên xã chạy qua giữa làng. Do đó, các thôn phía Đông như Cao Đình, xóm Sen, Đinh Thôn muốn giao tiếp với các thôn ở phía Tây như Đại Vy, Đại Thượng, Húc...đều phải qua Ve. Ngược lại cũng thế.

Về đường thủy, Ve nằm ngay bên hữu ngạn nhánh sông nhỏ thuộc hệ thống sông Hồng, là tuyến giao lưu theo chiều hướng Bắc-Nam mà cầu Ve là bến đò trung điểm. Dân miệt ruộng muốn “lên núi” bằng đường sông, và dân miền núi như Chè, Đông Lâu, Móng muốn xuống đồng bằng đều phải qua thủy lộ này.

Ngoài lợi thế về giao thông, Ve còn có ưu thế về nông, thủy sản và chăn nuôi gia cầm, gia súc.

Đồng ruộng ở Ve khá rộng, thổ nhưỡng mầu mỡ và đa dạng. Do đó cấy được nhiều loại lúa: Lúa Chiêm, lúa mùa, lúa nếp, tám thơm... Ngoài lúa là nguồn lợi chính còn các hoa màu phụ như sắn (mì), ngô (bắp), khoai...

Chẳng phải là cường điệu khi quả quyết nguồn thủy sản ở Ve đa dạng và phong phú nhất vùng. Được vậy là nhờ hai yếu tố: hệ thống ao làng tương đối nhiều và nhất là sự hiện diện của con sông cạnh làng.

Địa thế ở Ve thấp nên khi làm nhà, bà con trong một xóm hay một chi họ, có khi là vài anh em trong gia đình, cũng dành ra một vài sào (công) để đào đấu, vừa lấy đất nâng cao nền làm sân, nền nhà chống úng lụt, vừa làm ao nuôi cá, thả bèo, rau muống, rau rút. Do đó trong làng có nhiều ao. Hàng năm, hệ thống ao làng cung cấp một lượng cua, cá, ếch tuy nhỏ nhưng cũng góp phần vào sinh kế thôn dân. Trong khi rau muống và bèo các loại (bèo tây, bèo tấm, bèo cái) là nguồn thực phẩm giúp phát triển chăn nuôi gia cầm, gia súc.

Quan trọng hơn cả là nguồn thủy sản khai thác từ đồng ruộng và nhất là từ con sông cạnh làng. Đó là con ngòi – như quen gọi – bắt nguồn từ đầm Đại Trung, chẩy qua Ve và xóm Gạ... xuống khỏi Đầm Mậy rồi chuyển hướng về Dền Xộp trước khi đổ vào sông Lục Đầu.

Mùa mưa, tôm cá... xuôi theo dòng nước về ngòi Cầu Ve rất nhiều, vì đoạn ngòi này có hệ sinh thái thích hợp: cây cối hai bên bờ tạo bóng râm, mặt sông có nhiều bèo tiện trú ẩn, rễ cây và rễ bèo lưu giữ nhiều loại vi sinh vật (do nước mưa đem từ đồng ruộng xuống) là mồi cho cá, tôm, cua, ốc, ếch, nghêu, sò...

Tùy theo con nước, thôn dân thu gom nguồn thủy sản bằng cách: cắm đăng, kéo vó, đặt lờ, chài lưới. Mùa nước cạn thì đánh quấy, tát vét...

Tóm lại, nhờ thóc lúa và nông thủy sản khá dồi dào, dân Ve có cuộc sống tương đối ổn định, nói chung, không phải ra ngoài làm thuê làm mướn. Trái lại, Ve vốn là nơi thu hút khá nhiều lao động trong vùng.

Trên đây là đôi nét về danh xưng, vị trí, địa thế và cảnh quan quê hương, nơi tôi đã trải qua thời thơ ấu đầy ắp kỷ niệm, và đã từ đó ra đi theo sự đẩy đưa của vận nước, của lịch sử, mà hành trang chỉ là quãng đời nhỏ dại và nỗi nhớ quê, nhớ tổ.

Thursday, January 31, 2013

KÝ ỨC VỀ MẸ

KÝ ỨC VỀ MẸ

Kính dâng hương hồn Mẹ

Cha khuất bóng khi con chưa biết nhớ
Không bỏ con bơ vơ,
Mẹ chấp nhận đời chăn đơn gối chiếc
Dẫu bao đêm phải vật lộn với lòng mình
Hầu đứng vững giữa bủa vây cám dỗ

Làm sao quên những ngày đông buốt giá.
Mẹ lon ton, tất tả ngược xuôi
Chợ Ve, chợ Húc... chợ đời.
Lấy nhọc nhằn đổi miếng cơm manh áo
Nuôi con khôn lớn, nên người.

Công ơn Mẹ đất trời khôn chứa
Tình Mẹ con cao vời núi Thái Sơn
Trải bao dâu bể, nguồn cơn
Đắng cay Mẹ chịu, nhường con ngọt bùi

Tạ ơn Mẹ suốt đời chẳng đủ
Con thắp nén nhang dâng Mẹ thay lời

15/3/2000
Đinh Bằng

(Trích KYDV Số 1, trang 33)

LÀNG GÒ ĐỒNG ĐẠI BÁI - GIA BÌNH - BẮC NINH



Published on Mar 28, 2012
vanhoaviettv

Sunday, January 27, 2013

NHẮN VỀ XỨ DŨNG


NHẮN VỀ XỨ DŨNG

Ai về biển lúa mênh mông
Xứ Dũng Vy – lũy tre đông tiếng cười
Cho ta gởi chút bồi hồi
Vũng tâm tư của con người phiêu linh
(“Ai Về” - Lam Thy)

Ơi xứ Dũng năm mươi năm cách trở
Nhớ về ngươi – Ta vẫn nhớ vô cùng
Hướng về ngươi trong cả từng hơi thở
Thương về ngươi dù cách núi ngăn sông

Nghè Mậy – Bờ Cừ – Ông Soi – Đường Bưởi
Cầu Bạc – Cầu Ve – Cầu Giỏ – Cầu Cung
Cửa Ngõ – Đường Làng – Đường Giồ – Lò Ngói
Chỉ nghe tên đã đủ ấm trong lòng
Và còn nữa... biết bao nhiêu di tích
Đình Thần – Văn Chỉ – Chùa Ngoài – Chùa Trong
Đền Vua – Mả Ngụ – Ngưu Giang – Mả Chúa
Thắm đượm tình yêu: Nhà Thờ – Nhà Chung
Bãi Cò ấy, đáng yêu thay: Xóm Gạ
Gạ bên ngòi cho nước chảy xuôi dòng
Cánh Đồng Thần – nghe sao mà thấy lạ
Đồng của Thần nhân ? Ấn tượng vô song
Còn nhiều nữa... còn thật nhiều dấu ấn
Tuổi thơ xưa từng đã được ươm nồng
Lời mẹ ru âm vang trong xóm nhỏ
Tiếng học bài vang vọng những chiều không
Giọng cầu kinh màn đêm vương vấn mãi
Chuông Thánh Đường hòa lẫn Đại Hồng Chung
Men kỷ niệm trào dâng nồng ấm quá
Sưởi tâm hồn trải suốt kiếp long đong

Năm nao nhỉ, gió Đông tràn gốc rạ
Áo đụp nhiều mà người vẫn rung rung
Rồi bóng Xuân về ửng hồng đôi má
Đường làng quanh co đầy xác pháo hồng
Mùa Hè tới cho tuổi thơ vùng vẫy
Tay vung tay tung tóe nước trên sông
Rồi năm nao nữa mùa Thu vàng võ
Tiếng súng chen nhau khói lửa oi nồng
Bao trai tráng trong làng cùng vắng bóng
Đã lên đường theo tiếng gọi non sông
Một... hai... ba... bốn... Xuân qua Hè tới
Chiến tranh về cây cỏ cũng lao lung
Còn đâu nữa dưới bóng đa mát rượi
Bác nông phu thường nghỉ giấc trưa nồng

Năm nao nữa... lại mùa Thu ủ rũ
Cho Bắc Nam đôi ngã những hoài mong
Có còn không những đêm trăng rộn rã
Tiếng chày khua tiếng hát Dặm ươm nồng
Điệu Cò Lả vươn cao mùa Hát Ví
Buông điệu trầm Quan Họ tỏa không trung
Ồ lạ nhỉ hát Trống Quân dồn dập
Ruổi Cà kheo người xếp Tháp xoay vòng
Có còn không... có còn không...ước vọng
Lấy hành VI ươm DŨNG khí oai phong

Làng tôi đó – bao thăng trầm lịch sử
Bao sao dời vật đổi vẫn ung dung
Ngạo nghễ một Dũng Vy tràn sức sống
Luôn hiên ngang đối mặt với vô cùng
Ơi xứ Dũng muôn năm đầy thắm thiết
Những người con dù lưu lạc Tây Đông
Vẫn nặng mang tình quê hương bất diệt
Ghi lại đây gọi một nén hương lòng
Nhìn dĩ vãng – mơ tương lai rạng rỡ
Hỡi hồn linh xứ Dũng có nghe không ?

Hạ chí 2000
(Trích KYDV Số 1, trang 30)