Wednesday, June 24, 2015

Nhiều bất ngờ từ kết quả khảo cổ học tại thành cổ Luy Lâu

Thứ sáu, 16/01/2015 - 09:33
 
Nhiều bất ngờ từ kết quả khảo cổ học tại thành cổ Luy Lâu
 
Mới đây, đoàn chuyên gia của Đại học Đông Á (Nhật Bản) và Bảo tàng lịch sử Quốc gia cùng với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh hợp tác khai quật khảo cổ học tại Thành cổ Luy Lâu (Thanh Khương, Thuận Thành). Trong thời gian hơn một tháng, từ ngày 27-11-2014 đến 3-1-2015, đoàn nghiên cứu đã phát hiện nhiều kết quả bất ngờ mà từ trước đến nay chưa được đề cập đến.
 
Chiếc cầu đá ở đền thờ Sĩ Nhiếp trong thành Luy Lâu.
 
Lần đầu tiên xác định vị trí, quy mô thành Nội
   
Thành cổ Luy Lâu là trị sở quận Giao Chỉ thời Hán. Hai nghìn năm trước, Luy Lâu là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Lĩnh Nam - Bắc Việt Nam. Trải các thời kỳ từ Tam Quốc đến Lục Triều và Tùy Đường, Luy Lâu phát triển rất phồn thịnh và là tòa thành nổi danh với bề dày lịch sử văn hóa lâu đời trong khu vực Đông Á cổ đại. 
  
Thành cổ được xây dựng bên bờ sông Dâu cổ là khu đô hội của quận Giao Chỉ với hai khu “dân cư, cảng thị vệ tinh” phía Đông phát hiện thấy di tích bãi phà Hồ và phía Tây là khu Sen Hồ - một cửa nhánh của dòng sông Dâu cổ trước kia (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội). Các nhà nghiên cứu dùng ảnh chụp vệ tinh Corona từ năm 1964 nhận thấy rõ dấu vết khúc uốn của sông Dâu để lại và xác định địa tầng văn hóa Luy Lâu chỉ cao hơn so với mặt nước biển khoảng 5-7m. So sánh thấy khá giống với địa hình một khu đô thị văn minh Ai Cập cổ đại gần sông Nin. 
 
Thành cổ Luy Lâu gồm hai vòng thành Ngoại và Nội. Thành Ngoại có kết cấu bình đồ hình chữ Nhật, lệch Tây 9 độ, tường phía Tây dài 290m, tường phía Đông dài 268m, tường phía Bắc dài 603m, tường phía Nam dài 512m. Chứng tỏ, kết cấu chỉnh thể của thành Luy Lâu được xây với hướng chính Bắc, giống với cách thức xây đắp các khu đô thành và đô thị ở quận huyện Trường An, Lạc Dương thời Hán. 
 
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trước đây mới chỉ đề cập đến thành Ngoại mà hầu như chưa nói đến thành Nội. Vì vậy, để tìm hiểu quy mô, xác định kết cấu của thành Nội, đoàn nghiên cứu  mở 3 hố thám sát trong khu vực thành Nội. Kết quả tìm thấy vết tích của tường thành phía Đông thành Nội với nhiều lớp đất đắp thành, độ cao của tường là 1,8m, chân tường rộng 5m, mặt trên rộng 2,5m. Tại hố khai quật phía sau đền Sĩ Nhiếp phát hiện giới hạn phía Nam thành Nội và dấu vết cung điện thời Tùy Đường. Đáng chú ý là di tích tường thành phía Bắc và cổng thành phía Bắc của thành Nội cũng được xác định. 
 
Theo NCS Trương Đắc Chiến, cán bộ Bảo tàng lịch sử Quốc gia - người phụ trách khai quật khảo cổ học tại Luy Lâu đợt này cho biết: Những kết quả khảo cổ học đợt này cho phép đoàn nghiên cứu đoán định vị trí, quy mô của thành Nội không phải là lệch về phía Tây như bản vẽ năm 1969 và năm 1986 của Viện Khảo cổ mà thành Nội được mở rộng về phía Đông và thiên về phía Bắc. Cấu tạo của thành Nội có chiều dài Đông - Tây là 170m, chiều rộng Nam - Bắc là 110m. Tuy nhiên, vị trí tường thành phía Tây mới chỉ được xác định qua việc khôi phục địa hình và phải chờ đến lần khai quật tiếp theo. Từ các tầng văn hóa khảo cổ có thể chứng minh khu đô thị Luy Lâu thuộc quận Giao Chỉ xưa được xây dựng trải qua các thời kỳ từ Hán đến Lục Triều, Tùy Đường đều được xây dựng tại chính địa điểm thành cổ Luy Lâu.
 
Đoàn nghiên cứu tại một hố khai quật khảo cổ học ở Luy Lâu (Thuận Thành).
 
Tìm thấy hơn 50 mảnh khuôn đúc trống đồng
   
Một phát hiện mới quan trọng mang đến nhiều bất ngờ nhất là đã tìm được khoảng hơn 50 mảnh khuôn đúc trống đồng bằng đất nung ở độ sâu từ 1,8-2m bao gồm cả khuôn ngoài và khuôn trong, thuộc các bộ phận khác nhau như mặt, tang, lưng và chân. Các mảnh khuôn ngoài thường có những vòng tròn hoa văn điển hình của trống đồng Đông Sơn như: vòng tròn tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm, vạch ngắn song song, vân bông lúa… Trong khi các mảnh khuôn ngoài thường có màu đỏ nhạt thì mảnh khuôn trong thường có màu trắng xám và đặc. Mảnh khuôn lớn nhất tìm được dài khoảng 18cm, rộng 9cm, dày 6,5cm và có lẽ là phần chân trống, không trang trí hoa văn. 
  
Cùng với những mảnh khuôn đúc là các bộ phận khác không kém phần quan trọng như phễu rót đồng hay chốt định vị trục xoay. Những hiện vậy này góp phần khẳng định cho giả thuyết đúc trống trên bàn xoay theo 5 bước: Chế tạo ruột trên trục bàn xoay; Làm hai mang thân và vẽ hoa văn; Làm mặt và tạo hoa văn; Làm quai ; cuối cùng là ráp khuôn. 
 
Đáng nói là các mảnh khuôn đúc trống được tìm thấy lần này cách đền Lũng khoảng 80m về phía Bắc và cách nơi cố TS. Nishimura đã phát hiện ra mảnh khuôn đúc trống đồng đầu tiên vào năm 1999 khoảng 20m về phía Nam. Nói như PGS.TS.NGND Hoàng Văn Khoán là: Trước đây cố TS.Nishimura mới chỉ phát hiện được một mảnh đầu tiên và duy nhất thì nay “một rổ” mảnh khuôn đúc trống đồng được tìm thấy. 
 
Dựa trên các hiện vật khác tìm thấy trong cùng địa tầng như mảnh gốm in ô vuông hay đầu  ngói ống, các nhà khoa học xác định niên đại của mảnh khuôn đúc trống khoảng thế kỷ 4 sau công nguyên. Mặc dù còn khá thận trọng, chưa khẳng định Luy Lâu là nơi đúc trống đồng nhưng giới chuyên môn đều đánh giá những kết quả này có giá trị và ý nghĩa lớn cung cấp khối lượng tư liệu bằng hiện vật để tìm hiểu về kỹ thuật đúc trống đồng và là tiêu chuẩn quan trọng cho việc nghiên cứu niên đại trống đồng Đông Sơn nói riêng và văn hóa Đông Sơn nói chung.
 
Bài, ảnh: Thuận Cẩm
 

Hội Đình làng Lương - Tri Phương - Tiên Du - Bắc Ninh

Tháng 2

    • Mùng 1: Hội Đình làng Lương - Tri Phương - Tiên Du - Bắc Ninh, Đình thờ 3 anh em họ Cao gia và bà Vương phi Ỷ Lan
Hội làng Bình Ngô - Xã: An Bình, Huyện Thuận Thành, nơi thờ các bậc thủy tổ dân tộc: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ và Hùng Vương đệ nhất. Các sắc phong có niên đại như sau: 4 sắc Thiệu Trị 6 (1846), 3 sắc Tự Đức 3 (1850), 1 sắc Đồng Khánh 2 (1887), 1 sắc Duy Tân 3 (1909), 2 sắc Khải Định 9 (1924). Điều quý giá là bản thần tích "Hồng Bàng phả" của đền Bình Ngô đã cho biết rõ lai lịch, công trạng của các bậc thủy tổ dân tộc: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Hùng Vương
  • Mùng 4: Hội Đình Đông - Đình Đoài, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành (hai đình chung một hội)
    • Mùng 6
      • Hội Đình Làng Đông Côi (Thôn Cả - Thị Trấn Hồ - H. Thuận Thành - T. Bắc Ninh).
      • Hội Đình làng Dương Húc (Đại Đồng - Tiên Du), lễ rước Thành hoàng có công dẹp giặc Ân giúp nước.
      • Hội đình Keo ở Phù Chẩn, thị xã Từ Sơn
      • Hội làng Nghĩa Chỉ ở Nghĩa Chỉ, Minh Đạo, Tiên Du.
    • Mùng 6-­2:
      • Hội trình nghề ở Phương La Đông, Phương La Đoài (Tam Giang,­ Yên Phong).
      • Hội làng Tiêu Long, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 7:
      • Hội đền Đức Vua Bà (Thuỷ tổ Quan họ) làng Viêm Xá (Diềm) ở xã Hoà Long, huyện Yên Phong.
      • Hội làng Hồi Quan nơi thờ đức thánh Tam Quang ở xã Tương Giang thị xã Từ Sơn
      • Hội Chùa Đài hay còn gọi là chùa Kim Đài, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn
    • Mùng 7­-15:
      • Hội tranh cây mộc tất làng Long Khám ở xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du.
    • Mùng 7-9:
      • Hội làng Tiến Bào ở Tiến Bào, xã Phù khê, thị xã Từ Sơn
      • Hội làng Nguyễn Thụ ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Lễ Xuyên ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Yên Lã ở phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn.
      • Hội chùa Tiêu ở xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 8-9:
        • Hội làng Hưng Phúc ở xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn
    • Mùng 8­-10:
      • Hội làng Cẩm Giang ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 10:
      • Hội làng Đại Vi, xã Đại Đồng, Tiên Du, Bắc Ninh
      • Hội làng Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, thờ Lê Văn Thịnh (Thủ Khoa Đại Việt đầu tiên)
      • Hội làng Dương Lôi (Đình Sấm) ở phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn để kỷ niệm ngày mất của bà Phạm Thị, mẹ Lý Công Uẩn.
      • Hội làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du. Kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương TRẦN QÚY và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu PHƯƠNG DUNG, người có công cứu mạng Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ). Tưởng nhớ ơn hai anh em vị tướng ĐÀO LẠI BỘ người có công giúp Thục Phán AN DƯƠNG VƯƠNG đánh giặc Triệu Đà xâm lược.
      • Hội làng Đông Phù (Phú Lâm, ­Tiên Du) có trò rồng rắn đuổi bệt.
      • Hội làng Đại Mão, xã Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh
      • Hội làng Tiền Thôn, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
    • Mùng 10 - 12:
      • Hội làng Yên Mẫn, phường Kinh Bắc, Thành phố Bắc Ninh
    • Ngày 14:
      • Hội chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, TP Bắc Ninh.
    • Ngày 14­-15:
      • Hội chùa làng Nghiêm Xá ở xã Việt Hùng, huyện Quế Võ.
    • Ngày 12­-16:
      • Hội đình Đình Bảng (Đình Bảng, ­Từ Sơn) có đón chạ Cẩm Giang và thi đấu vật.
      • Ngày 17: Hội làng Nghi An (Trạm Lộ - Thuận Thành) rước phật, đá bóng, bóng chuyền, đánh đu, chọi gà, hát quan họ.
Lễ hội Đền Quan được tổ chức trong hai ngày 21 - 22/2 âm lịch hàng năm với nhiều hoạt động văn hóa thể thao, trò chơi dân gian phong phú hấp dẫn. Đây không chỉ là niềm vinh dự, tự hào của nhân dân và chính quyền địa phương mà còn là niềm động viên, khích lệ nhân dân có ý thức bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử của di tích.
Lễ hội tưởng niệm Đức Thánh Tam Giang. Vọng Nguyệt là nơi có đền thờ chính thờ Trương Hống (trong số 300 làng thờ Đức Thánh Tam Giang) - người anh cả trong gia đình có năm anh em, đã có công giúp Triệu Việt Vương đánh giặc và sau này hiển linh giúp Lê Đại Hành (981), Lý Thường Kiệt (1076) trong kháng chiến chống quân Tống. Tương truyền ông và người em - Trương Hát đã đọc bài thơ Nam quốc sơn hà trong các cuộc kháng chiến đó.[6][7]
    • Ngày 26:
      • Hội làng Tiến sĩ Kim Đôi ở xã Kim Chân, TP Bắc Ninh.
    • Ngày 28: Hội chiến thắng Như Nguyệt ở xã Tam Giang, huyện Yên Phong.

Source Wikipedia - Danh sách lễ hội ở Bắc Ninh