Wednesday, October 4, 2017

TÌM HIỂU THÊM VỀ CÁC VỊ TIÊN HIỀN TIÊN NHO ĐƯỢC TÒNG TỰ Ở VĂN MIẾU VĂN CHỈ CỦA VIỆT NAM

Hội thảo khoa học
Nguyễn Tá Nhí [Toàn văn]
             
TÌM HIỂU THÊM VỀ CÁC VỊ TIÊN HIỀN TIÊN NHO ĐƯỢC TÒNG TỰ Ở VĂN MIẾU VĂN CHỈ CỦA VIỆT NAM
Cập nhật lúc 10h34, ngày 25/10/2007



TÌM HIỂU THÊM VỀ CÁC VỊ TIÊN HIỀN TIÊN NHO ĐƯỢC TÒNG TỰ Ở VĂN MIẾU VĂN CHỈ CỦA VIỆT NAM
PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Văn miếu, văn chỉ là nơi thờ phụng Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương và các vị Tiên triết Tiên hiền của đạo nho. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, năm Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông dựng văn miếu ở kinh đô Thăng Long. Sách viết:
“Mùa thu tháng Tám dựng Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”.
Đến năm Nguyên Phong thứ 3 (1253) đời Trần Thái Tông, triều đình cho xây dựng Viện Quốc học ở kinh thành, cũng cho đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh, vẽ tranh Thất thập nhị hiền để thờ.
         Quy chế cho 72 vị Tiên hiền được tòng tự ở Văn miếu, văn chỉ được nhân dân cả nước triệt để tuân thủ. Hiện nay chúng ta có thể tìm thấy nhiều chứng cứ qua các tư liệu Hán Nôm hiện còn, đặc biệt trong các bản văn tế Khổng Tử vào kỳ tế Đinh mùa Xuân và mùa Thu hàng năm. Các vị Tiên hiền, Tiên nho được tòng tự ở văn miếu, văn chỉ của Việt Nam không chỉ có 72 vị Tiên hiền người Hán mà còn có cả người Việt, có cả các Tiên hiền, Tiên nho người địa phương. Về số người cụ thể, về nghi thức thờ cúng ở từng địa phương cũng có những khác biệt, do vậy trong bản Tham luận khoa học lần này chúng tôi xin đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu thành phần các vị Tiên hiền, Tiên nho.
1. Các vị Tiên hiền, Tiên nho người Hán
Khi ghi chép về các Tiên hiền được tòng tự ở văn miếu, văn chỉ của Việt Nam, các tư liệu Hán Nôm hiện còn chủ yếu là ghi theo quy chế ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư nêu trên, rất ít tài liệu ghi được con số cụ thể, ghi được tên họ tước hiệu của các Tiên hiền, Tiên nho.
1.1. Văn tế Tiên thánh chỉ ghi con số chung chung
Hiện nay trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm vòn lưu giữ được hàng trăm bản văn tế Tiên thánh. Hầu hết các bản văn tế này đều ghi một con số chung chung là, Thất thập nhị hiền. Ví dụ:
Văn tế Khổng tử ở văn chỉ xã Lạt Sơn huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam (ký hiệu AF a10/8) ghi:
Cung duy:
Thánh sư
Kính dĩ:
Tứ phối
Thập triết
Cập:
Thất thập nhị hiền
Dữ:
Bản xã Tiên hiền Hậu hiền chư nho hữu danh ư giáo giả, tịnh đồng phụ thực.
Nghĩa là:
Cung thỉnh Thánh sư
Kính mời Tứ phối, Thập triết và Thất thập nhị hiền, cùng với các vị Tiên hiền, Hậu hiền, Chư nho có công hướng dẫn dạy bảo, đều đến phối hưởng.
Hoặc như văn tế ở xã Từ Hồ huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên (ký hiệu AF a3/25) ghi:
Cung duy:
Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Tiên Sư Khổng Tử
Tứ phối
Tả hữu thập triết

Kính kỵ

Lưỡng vu Thất thập nhị hiền liệt vị tòng tự

Phổ cập

Bản xã Tiên hiền, Tiên nho Tiên đại liệt vị phụ phối
Nghĩa là:
Cung thỉnh: Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Tiên Sư Khổng Tử, Tứ phối, Tả hữu thập triết.
Kính mời: Liệt vị Thất thập nhị hiền ở Đông Vu, Tây Vu được tòng tự.
Cùng với tất cả các vị Tiên hiền, Tiên nho, Tiên đạt của bản xã, về đây phối hưởng.
Đa số các bản văn tế đều thấy ghi rõ là Thất thập nhị hiền tòng tự, song cũng có một số bản văn tế chỉ ghi vắn tắt là chư vị Tiên hiền được phối thờ ở hai dãy Đông tự Tây tự, ví dụ:
Văn tế ở xã Liêu Xá huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên (AFa3/25) ghi:
Cung duy:
Chí Thánh Tiên sư
Tứ phối

Kỵ

Tiên triết liệt vị
Đông tự Tây tự Tiên hiền liệt vị
Lịch đại Tiên hiền Tiên nho liệt vị
đồng hâm cách.
Nghĩa là:
Cung thỉnh: Chí Thánh Tiên sư, Tứ phối

Cùng với: Tiên triết liệt vị

Liệt vị Tiên hiền ở Đông tự, Tây tự
Liệt vị Tiên hiền Tiên nho các đời
đều về đây hâm hưởng.
Có khi còn ghi vắn tắt chư vị Tiên hiền Tiên nho một cách chung chung, mà không cần chỉ rõ là ở Đông vu Đông tự nữa, ví dụ:
Văn tế của xã Việt Yên huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định (AF a11/42) ghi:
Cung duy:
Chí Thánh
Tứ phối

Kỵ

Thập nhị triết, Tiên hiền Tiên nho
tịnh đồng thượng hưởng.
Nghĩa là:
Cung thỉnh: Chí Thánh, Tứ phối
cùng với Thập nhị triết, Tiên hiền Tiên nho
đều về hâm hưởng.
Lại có bản văn tế không ghi đủ con số 72 vị Tiên hiền, mà phân các vị đó theo năng lực sở trưởng khi theo học Khổng Phu Tử gồm các mặt đức hạnh, ngôn ngữ, chính sự, văn học. Ví dụ:
Văn tế của xã Mai Trung huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương (AF a14/6) ghi:
Cung duy:
Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Khổng Tử
Kính dĩ:
Tứ phối
Đức hạnh chư đại hiền
Ngôn ngữ chư đại hiền
Chính sự chư đại hiền
Văn học chư đại hiền
Đồng phụ thực
Nghĩa là:
Cung thỉnh: Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Khổng Tử
Kính mời: Tứ phối
Chư đại hiền có đức hạnh
Chư đại hiền có tài ngôn ngữ
Chư đại hiền có tài chính sự
Chư đại hiền có tài văn học
Cùng về phối hưởng
2.2. Các sách có ghi họ tên các vị Tiên hiền Tiên nho
Danh tính của các vị Tiên hiền Tiên nho được tòng tự ở văn miếu văn chỉ rất nổi tiếng được nhiều người ngưỡng mộ, thế nhưng các tư liệu Hán Nôm hiện còn thì ghi được rất ít. Hiện nay chúng tôi chỉ biết đến có ba bộ sách là Đại Nam thực lục, Tam giáo nhất nguyên, Tại gia tu trì Tam giáo nhất nguyên.
2.2.1.Đại Nam thực lục
Sách Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bắt đầu từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), chép các sự kiện xảy ra ở triều Nguyễn. Về sự kiện xây văn miếu thờ Khổng Tử, sách ghi: Năm 1808 sau khi xây xong văn miếu ở kinh đô Huế, vua Gia Long ban chiếu chỉ cho đặt ở gian chính giữa văn miếu bài vị Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử và Tứ phối Phục Thánh Nhan Tử, Thuật Thánh Tử Tư, Tông Thánh Tăng Tử, Á Thánh Mạnh Tử để thờ phụng. Cũng ở gian giữa dãy bên đông thờ 5 vị Tiên triết, dãy bên tây thờ 5 vị Tiên triết.
Ngoài ra còn các vị Tiên hiền Tiên nho cho tòng tự ở hai bên Đông vu và Tây vu.
Dãy bên Đông vu thờ 31 vị Tiên hiền và 17 vị Tiên nho.
Các vị Tiên hiền gồm: Đạm Đài Diệt Minh, Nguyên Hiến, Nam Cung Quát, Thương Cồ, Tất Điêu Khai, Tư Mã Canh, Hữu Nhược, Vu Mã Thị, Nhan Tân, Tào Tuất, Công Tôn Long, Tần Thương, Nhan Cao, Nhưỡng Tử Xích, Thạch Tác Thục, Công Hạ Thủ, Hậu Xử, Hề Dung Điểm, Nhan Tổ, Cú Tinh Cương, Tần Tổ, Huyện Thành, Công Tổ Cú Tư, Yến Cấp, Nhạc Khái, Địch Hắc, Khổng Trung, Công Tây Điểm, Nhan Chi Bộc, Thí Chi Thường, Tân Phi.
Các vị Tiên nho gồm: Tả Khâu Minh, Cốc Lương Xích, Cao Đường Sinh, Mao Trành, Đỗ Tử Xuân, Vương Thông, Âu Dương Tu, Chu Đôn Di, Trình Di, Trương Tải, Dương Trung Lập, Chu Hi, Lục Tử Uyên, Sái Thầm, Hứa Hành, Trần Hiến Chương, Vương Thủ Nhân.
Dãy bên Tây vu thờ 31 vị Tiên hiền và 16 vị Tiên nho.
Các vị Tiên hiền gồm: Bật Bất Tề, Công Dã Tràng, Công Tích Ai, Cao Sài, Phàn Tư, Công Tây Xích, Lương Chiên, Nhiễm Nhu, Bá Kiền, Nhiễm Lý, Tất Điêu Đồ Phụ, Tất Điêu Xá, Thương Trạch, Nhậm Bất Tề, Công Lương Nhu, Công Khiên Định, Khiêu Đan, Hãn Phụ Hắc, Vinh Cân, Tả Nhân Sính, Trịnh Quốc, Nguyên Cang, Liêm Khiết, Thúc Trong Hối, Công Tây Dư Nhu, Khuê Tốn, Trần Cang, Cầm Trương, Bộ Thúc Thừa, Thân Trành, Nhan Hối.
Các vị Tiên nho gồm: Phục Thắng, Khổng An Quốc, Đổng Trọng Thư, Hậu Thương, Hàn Dũ, Hồ Viện, Trình Hạo, Thiệu Ung, Tư Mã Quang, Hồ An Quốc, Lã Tổ Khiêm, Trương Thức, Chân Đức Tú, Tiết Tuyên, Hồ Cư Nhân.
Nhận xét:
- Tổng số các Tiên hiền ở Đông vu và Tây vu là 62 vị, chưa đủ con số Thất thập nhị hiền.
- Các vị Tiên nho gồm 33 vị đều là người Hán, không có vị Tiên nho người Việt nào được tòng tự ở Văn miếu Huế.
2.2.2. Tam giáo nhất nguyên
Sách Tam giáo nhất nguyên có khi còn gọi là Tam giáo quản khuy, Tam giáo đồng nguyên, Tam giáo nguyên lưu do Hoà thượng Phúc Điền biên soạn, khắc in năm 1846. Sách Tại gia tu trì Tam giáo nguyên lưu cũng do Hoà thượng Phúc Điền biên soạn, khắc in năm 1852. Cả hai bộ sách này đều ghi chép số vị Tiên hiền Tiên nho giống nhau.
Tiên hiền có 71 vị:
         Đạm Đài Diệt Minh, Nguyên Hiếu, Nam Cung Quát, Thương Cồ, Tất Điêu Khai, Tư Mã Canh, Vu Mã Thị, Nhan Tân, Tào Tuất, Công Tôn Long, Tần Thương, Nhan Cao, Nhưỡng Tử Xích, Thạch Tác Thục, Công Hạ Thủ, Hậu Xứ, Hề Dung Điểm, Nhan Tổ, Cú Tinh Cương, Tần Tổ, Huyện Thành, Công Cú Tư, Yến Cấp, Nhạc Khái, Địch Hoắc, Công Tây Điểm, Nhan Chi Hộc, Thi Chi Thường, Tần Phi (cả 29 vị trên đều thấy có ở dãy Đông vu trong văn miếu Huế), Tử Miệt, Tả Khâu Minh, Nhạc Chính Khắc, Vạn Chương, Trình Hạo, Trương Tải, Bật Bất Tề, Công Dã Tràng, Công Tích Ai, Cao Sài, Phàn Tư, Công Tây Xích, Lương Chiên, Nhiễm Nhu, Bá Kiền, Nhiễm Lý, Tất Điêu Đồ Phụ, Tất Điêu Xá, Thương Trạch, Nhậm Bất Tề, Công Lương Nhu, Công Khiên Định, Khiêu Đan, Hãn Phụ Hắc, Vinh Cân, Tả Nhân Sính, Trịnh Quốc, Nguyên Cang, Liêm Khiết, Thúc Trong Hối, Công Tây Dư Nhu, Khuê Tốn, Trần Cang, Cầm Trương, Bộ Thúc Thừa, Thân Trành, Nhan Hối (cả 31 vị từ Bật Bất Tề trở xuống đều thấy có ở dãy Tây vu trong Văn miếu Huế).
         Tiên nho có 48 vị:
         Cốc Lương Xích, Phục Thắng, Đổng Trọng Thư, Hậu Thương, Đỗ Tử Xuân, Vương Thông, Hồ Viện, Phạm Trọng Yêm, Tư Mã Quang, Doãn Đôn, Hồ An Quốc, Lã Tổ Khiêm, Sái Cang Định, Sái Thầm, Trần An Khánh, Nguỵ Liễu Ông, Vương Bác, Hứa Khiêm, Trần Hạo, Triệu Phục, Chu An, Tiết Tuyên, Vương Thủ Nhân, Lục Lũng Kỳ, Trịnh Huyền, Phạm Ninh, Sĩ Nhiếp, Hàn Dũ, Âu Dương Tu, Dương Thời, La Tông Ngạn, Lý Đồng, Trương Thức, Lục Tử Uyên, Hoàng Cán, Châu Đức Quý, Hà Cơ, Kim Lý Tường, Hứa Hành, Ngô Trừng, La Khâm Thuận, Trần Hiến Chương, Hồ Cư Nhân, Công Dương Cao, Cao Đường Sinh, Tử Quốc, Mao Trành, Sái Thanh.
Nhận xét:
         - Danh sách Tiên hiền vẫn chỉ là 71 vị, không đủ con số Thất thập nhị hiền.
         - Có một số vị không phải là học trò của Khổng Tử như Vạn Chương là môn đệ của Mạnh Tử, Trình Hạo, Trương Tải là các nhà nho đời Tống.
         - Tiên nho gồm 48 vị, trong đó có Chu An (xếp thứ 21) và Sĩ Nhiếp (xếp thứ 27). Cả hai vị Tiên nho này đều không được tòng tự trong các văn miếu của Trung Quốc. Chẳng hạn như sách Khúc Phụ huyện chí do Nhà xuất bản Thịnh Văn xuất bản xã xuất bản năm Dân Quốc tứ 26 (1966) ở Tế Nam ghi tên các vị Tiên hiền Tiên nho tòng tự ở Văn miếu Khúc Phụ gồm 175 vị, không thấy ghi tên Chu An và Sĩ Nhiếp.
         2. Các vị Tiên hiền Tiên nho người Việt
         Các vị Tiên hiền Tiên nho người Việt được tòng tự ở văn miếu, văn chỉ của Việt Nam chủ yếu là người của địa phương đó, như văn miếu ở tỉnh thờ các nhà nho ở tỉnh, văn chỉ ở xã thờ các nhà nho ở xã. Đa phần các văn tế chỉ ghi chung chung như:
Bản ấp Tiên nho liệt vị (xã Cự Sưu huyện Văn Lâm)
Bản ấp Tiên hiền, Hậu hiền chư nho hữu công danh giáo giả (xã Lạt Sơn huyện Kim Bảng)
Bản thôn Tiên hiền, Thứ hiền hữu công ư Tư đạo giả (xã Đình Loan huyện Văn Lâm).
         Có một số xã ghi rõ tên hiệu học vị của Tiên hiền người địa phương, như Văn tế ở xã Do Nhân huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phúc (AE, a7/8) ghi rõ:
Bản ấp chư tiên sinh:
Tiến sĩ Lê công tên tự là Phúc Kỷ
Hương cống Đoàn công tên tự là Phúc Khanh
Sinh đồ Đoàn công, tên tự là Phúc Hiến
         Ngoài các Tiên hiền Tiên nho người địa phương ra, các vị thần linh trông coi văn chỉ, hoặc Thổ địa thần kỳ, Đương cảnh thành hoàng cũng được mời về phối hưởng.
Ví dụ:
Bản xã Tiên hiền, văn chỉ Thổ thần đồng chiếu giám
(xã Trúc Động huyện Thạch Thất)
Thổ địa Thần kỳ đồng lai phối hưởng
(xã Do Nhân huyện Yên Lãng)
Đương cảnh Thành hoàng đại vương đồng tòng tự
(xã Trân Kỳ huyện Cẩm Giang).
         Đặc biệt có hai vị Tiên nho là Chu An và Sĩ Nhiếp có tên trong sách Tam giáo nguyên lưu được rất nhiều làng xã cho tòng tự ở văn chỉ của địa phương mình.
         Như trên đã giới thiệu, sách Đại Nam thực lục không thấy xếp hai vị Chu An và Sĩ Nhiếp vào hàng tòng tự ở văn miếu Huế, bởi lẽ triều đình nhà Nguyễn không chấp thuận ý kiến đề nghị của các quan ở Bắc Thành. Sách viết: “Các quan ở Bắc Thành tâu rằng, văn miếu ở thành từ triều Lê trở về trước cho Sĩ Vương và Chu An tòng tự. Xét, trong Sử ký thì Sĩ Vương đem thi thư đến hoá tục nước ta, đem lễ nhạc đến cảm hoá lòng người, văn hiến của nước ta bắt đầu từ đấy. Chu An thì thanh bạch giữ tiết, lý học tinh thông, là vị đại nho ở đời, cho nên các đời đều nêu gương sáng mà đặt vào hàng tòng tự ở văn miếu. Nay xin tuỳ bệ hạ quyết định”.
         Nhà vua liền giao việc đó cho các quan bàn luận, mọi người đều cho rằng Sĩ Vương và Chu An chưa thể liệt vào hàng tòng tự được. Nhà vua nghe theo.
         Sách Tam giáo nguyên lưu của Hòa thượng Phúc Điền biên soạn sau khi có lệnh này, song trong sách vẫn ghi tên Sĩ Vương và Chu An vào hàng Tiên nho. Điều này có thể lý giải bởi hai nguyên nhân chính.
         Một là, Hoà thượng Phúc Điền là người xuất thân từ dòng dõi nhà nho. Ông vốn người họ Vũ sinh năm 1784 tại làng Trung Thịnh huyện Sơn Minh trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc xã Trường Thịnh huyện Ứng Hoà tỉnh Hà Tây). Thuở nhỏ theo đạo nho, lớn lên mới xuất gia đầu Phật, do vậy ông đã tiếp thu tư tưởng Nho gia từ rất sớm, và việc xếp Sĩ Vương và Chu An vào hàng Tiên nho là theo quan điểm truyền thống, như ý kiến của các quan ở Bắc Thành tâu lên với triều đình nhà Nguyễn.
         Hai là, uy tín của hai vị Tiên nho Sĩ Nhiếp và Chu An là rất lớn đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng của Hoà thượng Phúc Điền. Để làm rõ thêm điều này, chúng ta cần thiết tìm hiểu thêm thân thế sự nghiệp của hai vị đại nho này.
         Chu An tên tự là Linh Triệt, hiệu là Văn Trinh, người làng Quang Liệt huyện Thanh Đàm, nay thuộc xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì Hà Nội. Ông thi đỗ Thái học sinh đời Trần, làm quan đến Tư nghiệp quốc tử giám, sau ông cáo quan về mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung cũng ở huyện Thanh Đàm. Ông từng biên soạn bộ Tứ thư thuyết ước nhằm giúp cho việc dạy học và truyền bá đạo nho. Sau ông lại lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng làng Kiệt Đặc huyện Chí Linh. Năm 1370 ông mất, được triều đình ban tước Văn Trinh công, thuỵ là Khang Tiết, lại cho thờ tòng tự ở văn miếu Thăng Long. Người đời sau xem ông là nhà giáo mẫu mực cho muôn đời. Thời Nguyễn tuy không được tòng tự ở văn miếu, song ở các làng xã nhiều làng khi viết văn tế vẫn ghi tên ông. Đặc biệt có bốn làng làm đền thờ cúng ông, đó là làng Thanh Liệt, làng Hành Cung của huyện Thanh Trì, làng Đức Viên huyện Thọ Xương, nay thuộc phố Trần Xuân Soạn, Hà Nội và làng Kiệt Đặc của huyện Chí Linh. Hiện nay Chu An đã được đúc tượng thờ ở khu Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
         Sĩ Nhiếp, theo các tư liệu lịch sử thờ tổ tiên ông là người phương Bắc, đã di cư sang ở Việt Nam, đến đời ông đã thuộc thế hệ thứ sáu. Ông là người có tài đức, được sử sách ca ngợi rất nhiều.
         Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lời nhận xét của Sử thần Ngô Sĩ Liên về Sĩ Vương có đoạn viết: "Nước ta chuộng thi thư biết lễ nhạc và trở thành một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương. Công đức ấy không chỉ đối với đương thời mà còn truyền mãi về sau, thế chẳng lớn sao!".
         Quả đúng như vậy. Sĩ Vương đã được nhiều thế hệ người dân đất Việt ghi nhận công đầu trong việc mở mang đạo học ở cõi trời Nam, nên đã tôn xưng là Nam Giao học tổ. Hơn thế nữa ông còn được nhân dân ở nhiều làng xã lập đền thờ phụng hương khói quanh năm. Theo số liệu khai báo năm 1938 về tập tục thờ cúng của các làng xã ở vùng Bắc Bộ và Trung Bộ, đã có 22 làng thờ phụng Sĩ Vương, phân bố trong 10 tỉnh thành, bao gồm:
         Tỉnh Bắc Ninh có 4 làng là Lũng Khê, Thanh Tương, Tam Á (huyện Thuận Thành) và Đại Trung (huyện Tiên Du).
         Tỉnh Hà Nam có 1 làng là Cát Tương (Bình Lục).
         Thành phố Hà Nội có 1 làng là Dục Tú (Đông Anh).
         Tỉnh Hà Tây có 4 làng là Hương Vĩnh (Phúc Thọ), Hoàng Hạ, Hà Vĩ, Hoàng Lưu (Phú Xuyên).
         Tỉnh Hải Dương có 6 làng là Bình Xá (Cẩm Giang), Nhân Lễ (Nam Sách), An Liệt, Thừa Liệt (Thanh Hà), Kiêm thôn, Mỹ Đức (Tứ Kỳ).
         Tỉnh Hưng Yên có 1 làng là Mễ Đậu (Văn Lâm).
         Tỉnh Nam Định có 1 làng là Dưỡng Mông (Ý Yên).
         Tỉnh Nghệ An có 1 làng là Hoàng Cầu (Hưng Nguyên).
         Tỉnh Phú Thọ có 2 làng là Sơn Bình (Lập Thạch) và An Bài (Yên Lãng).
         Trong các ngôi đền này đều có Sắc phong, Thần phả, Văn tế ghi chép sự tích của Sĩ Vương và các nghi thức thờ cúng của dân làng. Đặc biệt ở hai ngôi đền thời Sĩ Vương ở làng Lũng Khê (tên cũ là Lũng Chiền) và làng Tam Á cùng ở huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh còn lưu giữ được hàng chục tấm bia đá ghi chép quá trình xây dựng tu bổ đền và tục lệ cúng tế ở địa phương. Đây là những văn bản Hán Nôm có niên đại xác định chính xác, có thể cung cấp những tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu Sĩ Vương và thành cổ Luy Lâu.
         Uy tín và đức độ của hai vị Tiên nho Sĩ Nhiếp và Chu An còn thể hiện qua việc ghi tên ông vào văn tế Tiên hiền của làng xã.
         Có văn tế chỉ ghi tên hiệu một mình Sĩ Vương, với các tôn hiệu cao quý, ví dụ:
Nam Giao Học tổ (xã Thục Cầu huyện Văn Lâm)
Giao Châu Đô hộ Sĩ Vương (xã Trân Kỳ huyện Cẩm Giàng)
Bản quốc Sĩ Vương Học tổ (xã Nguyên Khê huyện Đông Anh).
         Lại có loại văn tế chỉ ghi tên hiệu một mình Tiên nho Chu An, ví dụ như văn tế xã Bút Phong huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam, văn tế xã Phong Cốc huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định và văn tế ở xã Phú Cát huyện Mỹ Lương tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Quốc Oai, Hà Tây) đều thấy ghi là:
Đệ Sư hầu Chu Văn Trinh lão bất cử Chu An
Nghĩa là:
Đệ Sư hầu Chu An Văn Trinh ở ẩn suốt đời không về.
Lại có bản văn tế ghi tên cả hai vị tiên Nho Sĩ Nhiếp và Chu An, ví dụ:
Nam Giao học tổ Sĩ Vương tiên
Trần triều Chu Văn Trinh công.
(xã Cự Sưu huyện Văn Lâm)
Nam Giao học tổ Sĩ Vương tiên
Trần triều Thái học sinh Chu Văn An
(xã Đình Loạn huyện Văn Lâm)
Lời kết
1. Hai vị tiên Nho Sĩ Nhiếp và Chu An là những người có công đối với văn hóa Việt Nam, thật xứng đáng với lời bình phẩm của quan lại ở Bắc Thành: “Sĩ Vương đem thi thư đến hóa tục nước ta, đem lễ nhạc để cảm hóa lòng người, văn hiến của nước ta bắt đầu từ đấy. Chu An thì thanh bạch giữ tiết, lý học tinh thông, là vị đại nho ở đời, cho nên các đời đều nêu gương sáng mà đặt vào hàng tòng tự ở Văn miếu”.
2. Hiện nay ở một số tỉnh đã khôi phục xây dựng lại Văn miếu như Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Đồng Nai; một số tỉnh đang có dự tính xây dựng Văn miếu mới như Vĩnh Phúc, Hà Tây. Ở một số làng xã cũng đã khôi phục xây dựng lại Văn chỉ, Văn từ. Do vậy cần thiết có những quy chế phù hợp để hướng dẫn việc thờ tự ở Văn miếu, Văn chỉ, đặc biệt là việc xem xét tuyển chọn các vị tiên hiền, tiên nho như Chu An, Sĩ Nhiếp vào tòng tự.
3. Cần tuyển chọn, biên dịch, giới thiệu các bản văn tế tiên hiền thời xưa để các nơi thờ tự tiên hiền ở địa phương hiểu được nghi thức tế tự thời xưa, đồng thời có thể soạn ra các bản văn tế mới phù hợp với truyền thống và hiện đại./.

Tài liệu tham khảo
1. Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb KHXH, 1993
2. Di sản Hán Nôm Việt Nam – Thư mục đề yếu, Nxb KHXH, 1993
3. Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, 2004
4. Hương ước cổ Hà Tây, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 1993
5. Yên Mĩ huyện Nhị Mễ xã tục lệ, AF.a3/25
6. Văn Lâm huyện Thục Cần xã tục lệ, AF.a3/67
7. Kim Bảng huyện Lạt Sơn xã tục lệ , AF.a10/8
8. Vụ Bản huyện Việt Yên xã tục lệ, AF.a11/42
9. Đông Anh huyện Nguyên Khê xã tục lệ, AF.a7/5.


Discussion on setting of the cult of Tiên hiỀn AND Tiên nho at the Temple of Literature in ViỆt NAM
 
Nguyễn Tá Nhí, PhD
The Institute of Han-Nôm Studies

Like other countries in the East Asian region where Confucianism is practiced, Việt Nam has established a Temple of Literature (Văn Miếu) to worship Confucius and Tiên hiền (brilliant Confucian sages). According to the book Đại Việt sử ký toàn thư (A Complete History of Đại Việt), there has been a temple in honor of Confucius was built in the imperial city of Thăng Long under the Lý Dynasty. More temples of this kind appeared later throughout the country, during the Trần, Lê, Mạc, and Nguyễn dynasties. Đại Nam thực lục records that the Nguyen Dynasty built a temple of literature in the city of Hue in 1807, to worship Confucius, along with sixty-two Tiên hiền and thirty-three Tiên nho (brilliant Confucian scholars). After that, the officers in Bắc Thành filed a report requesting that Sĩ Nhiếp and Chu Văn An (Rector of the National University in the 13th century) join in accordance with the Lê Dynasty’s regulations. The Imperial Court at Hue did not accept this proposal, but the regulations of the Lê regime were retained in some places around the country. The book Đạo giáo nguyên lưu by the Buddhist monk Phúc Điền indicates that Văn miếu venerated seventy-one Tiên hiền and forty-eight Tiên nho, including Sĩ Nhiếp and Chu Văn An. Especially in the springtime and wintertime ceremonies in honor of Confucius, the inclusion of Sĩ Nhiếp and Chu Văn An was emphasized.
Some localities in Việt Nam are carrying out the repair of the temples for Confucius. Therefore, appropriate attention needs to be paid to the cult of the Tiên hiền and Tiên nho.



Friday, September 29, 2017

Trao đổi ý kiến về Gia phả - Ông Nguyễn Văn Huỳnh và ông Đinh Tất Thức (Tiếp theo 5)

Trao đổi ý kiến về Gia phả - Ông Nguyễn Văn Huỳnh và ông Đinh Tất Thức (Tiếp theo 5)

From: Thức Đinh (dthuc@live.com)
Fri 9/29/2017 1:59 PM
To: HUỲNH NGUYỄN (nguyen.huynh.dungvi@gmail.com)

Chào anh Huỳnh

Liên hệ được càng nhiều họ hàng bà con sẽ có thêm ý kiến và đầy đủ hơn...

Anh cứ tìm kiếm và tu chính thêm về Gia phả. Khi nào tạm xong thì gởi để Thức phố biến cho bà con đồng hương cùng tham khảo. Cứ mỗi lần tu chính, anh tăng lên một bản (Tu chính lần 1,2,3...) để tiện theo dõi và đăng trên Blog KYDV.

Chúc sức khỏe
Thức Đinh

----------

From: HUỲNH NGUYỄN  
Thứ 9/28/2017 9:29 PM
To: Thức Đinh (dthuc@live.com

Chú Thức thân mến, 

Tộc họ Nguyễn-Văn còn hai trang đầu, anh được chú Đảng ở VN bổ túc: 

Đời thứ nhất:

   Tổ phụ sinh được 2 con trai:

         1. Cụ Nguyễn Văn Nguyên, (anh cả là ngành I.)
         2. Cụ Nguyễn Văn Xã, (em thứ là ngành II.)

Đời thứ hai:
 
  Cụ Nguyễn Văn Nguyên, (sẽ tìm hiểu.)
 
  Cụ Nguyễn Văn Xã sinh 3 trai và 2 gái.

   1. Nguyễn Văn Phức.
   2. Nguyễn Văn Nhu.
   3. Nguyễn Văn Cót.
   4. Nguyễn Thị Ngào.
   5. Nguyễn Thị Ngọt.

Đời thứ ba:

 Nguyễn Văn Phức sinh 6 con, 2 trai và 4 gái.

  1. Nguyễn Văn Kiệu.
  2. Nguyễn Văn Tuynh.
  3. Nguyễn Thị Mỹ.
  4. Nguyễn Thị Sún.
  5. Nguyễn Thị Phùng.
  6. Nguyễn Thị Phúc.

Tạm ngừng ở đây, những phần còn lại anh sẽ đưa tu chính vào gia phả.

  - Em hỏi mẹ em trong bốn cụ bà: Mỹ, Sún, Phùng và Phúc, ai là bà nội của mẹ em và ai là bà nội của bác Khánh.

Cám ơn chú thật nhiều.

Wednesday, September 27, 2017

Gia Phả - Nguồn cảm xúc dạt dào về đạo lý uống nước nhớ nguồn

         
Mai Xuân Hải
              
 
Cập nhật lúc 07h25, ngày 14/02/2008

GIA PHẢ - NGUỒN CẢM XÚC DẠT DÀO VỀ ĐẠO LÝ UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN
Mai Xuân Hải
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Hai tiếng “Gia phả” đối với người Việt Nam ta xưa nay thật vô cùng thiêng liêng. Bởi gia phả chính là bộ sử sống của gia đình, của dòng họ, mà ở đó tổ tiên, ông bà các đời của chúng ta, những người liên tục truyền nối từ thuở vô thủy tới nay đã mang đến cho ta mạng sống, cho ta được làm người đã hiện lên rõ rệt...
Xưa kia, bất kể dòng họ lớn nhỏ nào cũng thường có gia phả. Dòng họ nhỏ đôi khi chỉ vài mươi trang ghi chép vắn tắt họ, tên, ngày giỗ, phần mộ của các cụ. Dòng họ lớn thì gia phả viết rất quy củ, có phép tắc, có đủ lời tựa, lời dẫn, phàm lệ, đủ cả phần chính phả, ngoại phả. Ngoài việc ghi chép họ tên, thụy hiệu, ngày sinh ngày mất, phần mộ, chức tước, hành trạng, công lao lúc sống của các cụ, gia phả còn ghi chép cả thơ văn, bi ký, hoành phi, câu đối, văn khấn, nghi thức cúng giỗ, điều lệ dòng họ, về việc xây dựng từ đường, ruộng họ, cùng các đạo sắc phong, chế cáo ban tặng của nhà vua. Phần nhiều là gia phả viết tay, đôi khi những dòng họ có điều kiện kinh tế và có ý thức cao, gia phả còn được khắc in.
Nhưng dù dài ngắn mặc lòng, gia phả vẫn là những bộ sử riêng của gia đình, dòng họ viết về những bậc tiền bối với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “phục bản phản thủy”, “thận chung truy viễn”, nên nó thường tràn đầy một tình cảm thiêng liêng, một trách nhiệm, một bổn phận cao cả đối với các lớp tiền bối và cả các lớp con cháu sau này, một thái độ thành kính, biết ơn công lao sinh thành, gây dựng, vun đắp của tổ tiên, nên có sức lôi cuốn, có sức cảm hóa mạnh mẽ các lớp cháu con.
Đọc gia phả chúng ta sẽ thu hoạch được rất nhiều tri thức bổ ích. Chúng ta sẽ hiểu sâu hơn về các mặt sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán, những sự kiện lịch sử mà nhiều khi không được ghi chép trong chính sử của triều đình. Rồi còn văn chương, thơ phú, triết lý... Quả thật có những cuốn giả thực sự có tính chất “bách khoa toàn thư” về dòng họ, về xã hội quá khứ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào khía cạnh nhận thức của gia phả, chúng tôi chỉ xin trích dịch một vài đoạn văn, một vài mẩu chuyện trong một số cuốn gia phả, nói lên những suy nghĩ và đạo đức, đạo lý làm người của ông cha, thân thiết gần gũi với chúng ta, mà ngày nay, những nét đẹp đạo đức ấy, đã từ lâu được người Việt Nam ta chấp nhận, trở thành đạo đức truyền thống, tâm linh dân tộc, rất giàu cảm xúc uống nước nhớ nguồn, được các gia đình của mọi dòng họ Việt Nam vẫn thường dạy dỗ con cháu, đặng góp vào việc đánh thức những cảm xúc hướng thiện trong chúng ta trong cuộc hành trình trở về cội nguồn đang diễn ra sôi nổi hôm nay.
Trước hết, chúng ta hãy bắt đầu từ những trang của lời tựa, mà ở đây chúng ta thường bắt gặp những suy nghĩ dung dị về đạo đức làm con, đạo làm người, về mục đích của việc biên soạn gia phả.
Bài tựa gia phả họ Tăng ở thôn Nghiêm Thắng, huyện Đô Lương, Nghệ An viết: “Cây có nghìn cành vạn lá là nhờ có gốc. Nước có nghìn suối vạn dòng là nhờ có nguồn. Con người ta họ hàng con cháu đông đảo, ai mà không bắt nguồn từ tổ tiên?”.
Bài tựa gia phả họ Nguyễn Nhân ở làng Xuân Dương, huyện Thanh Chương, Nghệ An viết: “Có người hỏi tôi viết gia phả để làm gì? Tôi đáp: Đạo Càn thành nam, đạo Khôn thành nữ, con người nhờ đó được sinh ra. Vì thế con người ta sinh ra phải kính trọng cha mẹ, tôn kính tổ tông. Lúc bắt đầu là từ một gốc, sau chia ra nhiều nhánh, rồi nối tiếp nghìn vạn con cháu. Bởi lẽ đó, nếu không chép phả thì con cháu các đời sau làm sao mà biết được?”.
Bài tựa gia phả họ Đỗ thôn Đại Định, xã Cao Đài huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú viết: “Phép làm gia phả là chi chép nguồn gốc tổ tông, như cành có gốc, như nước có nguồn, có vật nào mà lại không như vậy? Làm con cháu nếu không biết họ hàng tông tộc bắt nguồn từ đâu, khi đối đáp với người ngoài thì dụng dạ rỗng tuếch, chẳng biết nói gì, hoặc nói về tổ tiên thì ú ớ cái lưỡi. Kế thừa máu thịt của ông cha mà như thế, phỏng có hổ thẹn không?”.
Bài tựa gia phả họ Mai ở Phương Liệt viết: “Kính nghĩ các cụ tổ tiên ta phúc đức đầy đặn, ăn ở hiếu hạnh. Cụ thủy tổ ta sinh ra ở đất Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), nảy nở điềm lành ở vùng sông Nhĩ (sông Hồng). Trải qua các đời thứ hai, thứ ba, thứ tưu, thứ năm nối nhau kế thừa, có người văn học tiếng tăm, có người đạo đức ngời sáng. Được như vậy là do tổ tiên gây dựng từ lâu đời. Làm con cháu mà không biết ăn ở đầy đặn, không biết báo đáp công ơn tổ tiên thì còn ra quái gì nữa! Kinh Thi nói: “Tưởng nhớ tổ tiên, tu dưỡng đạo đức, một niềm tu dưỡng, giữ lấy nếp nhà” làm cho sự nghiệp của tiền nhân được vẻ vang, làm gì có con đường nào khác nữa đâu. Những người khéo đọc gia phả hãy nên suy ngẫm về điều đó...”.
Ngày nay chúng ta đọc bất cứ bài tựa nào của bất cứ một cuốn gia phả nào của người Việt Nam chúng ta, chúng ta đều được đọc những dòng chữ, những suy nghĩ về ông bà tổ tiên thành kính, trân trọng như thế.
Đấy là ở bài tựa. Còn về nội dung thì sao? Trong rất nhiều cuốn gia phả ngoài phần chép tên tuổi, ngày giỗ, phần mộ, còn có những dòng miêu tả hành trạng, tính cách, điều ăn nết ở rất sống động, đọc lên, chúng ta có cảm giác như các cụ “canh tường như tại”(1), đang sống cùng cháu con, đang dạy dỗ cháu con, chính bằng cuộc sống của mình.
Gia phả họ Bùi xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Đông (nay là Hà Tây) viết về cụ tổ đời thứ 10 là cụ Ôn Mục Đoan Khiết công như sau: “Tính cụ nghiêm thẳng, trị nhà cần kiệm có phép, thờ phụng cha mẹ rất hiếu thảo, giữ mình kính cẩn, đãi người chân thành, đối với hàng xóm thì hòa mục lễ nghĩa, tương thân tương ái, không ai chê trách gì được...”. Khi viết về cụ bà, gia phả chép càng cảm động hơn: “... Cụ bà hiệu là Từ Tường nhụ nhân, tính nết cần kiệm tần tảo, rất mực thương yêu chồng con. Thuở còn hàn vi, mỗi khi đi chợ về, cụ đều giành ra vài đồng tiền kẽm để mua giấy bút cho con đi học. Cụ Khắc Trai công chăm chỉ học hành, ngày sau thành đạt, phần nhiều là nhờ công lao dậy dỗ của cụ vậy. Sau này cụ Khắc Trai công làm quan ở viện Hàn lâm, thường xót xa về nỗi mẹ già đã qua đời, không được phụng dưỡng. Đến ngày giỗ mẹ, cụ xúc động làm một bài thơ rằng:
“Quan cao nơi viện Hàn lâm,
Cảm thương nhớ mẹ, ướt đầm lệ sa.
Giờ đây tuổi hạc đã già,
Ba mươi năm trước, xót xa nhớ người.
Công danh vinh hiển ở đời,
Cũng là ơn mẹ, khôn nguôi báo đền..
Ấy nhờ phúc ấm tổ tiên,
Quế lan tươi tốt, vững bền dài xa..”
Gia phả họ Lê ỡ xã Phù Xá, huyện Kim Hoa, phù Đa Phúc, tỉnh Bắc Ninh, là một vọng tộc lớn ở Bắc Ninh xưa, gia phả viết rất kỹ càng đầy đủ. Đặc biệt những dòng viết về công tích đạo đức của tiền nhân đọc lên rất xúc động. Như đoạn viết về cụ tổ đời thứ 8 rằng: “... Khi cụ làm xã trưởng, cụ xử sự công bằng, được dân xã tin yêu... Vả lại, bấy giờ gặp lúc lắm gian nan, dân tình đói kém, phàm gặp người nào có tai ách, cụ đều rủ lòng chu cấp, mọi người đều được hưởng ơn trạch. Sau khi cụ mất, hai xã tưởng nhớ công đức, đều xin được thờ cụ ở trong đình... Kìa như họ nhà ta đối với dân chúng hai xã Đông Đoài có ơn trạch rất lớn, là bắt đầu từ cụ tằng tổ Nghiêm Quang hầu vậy. Cụ tổ ta nối theo, xây dựng nhà tế đường, sửa sang hương lệ, sắp đặt kỷ cương, đời đời tuân theo, cũng là một việc làm to tát cho dân. Nghìn năm hương hỏa vẫn còn trường tồn nơi miếu xã, mà nhà ta nối đời hưng thịnh. Đó thực là nhờ các cụ liệt tổ nhà ta để lại ơn trạch đến vô cùng vậy”.
Cũng trong cuốn gia phả họ Lê ở Phù Xá này, đọc đến đoạn văn bia, đọc bài minh họa sau đây, con cháu nào mà không tự hào chính đáng về tiên tổ: “Kìa như cụ chỉ là người ở nơi thôn dã cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ vất vả gian nan, mà sừng sững hơn hẳn bọn lưu tục, ưa văn học, thích bố thí, lấy đạo làm việc thiện để lại cho con cháu, làm vinh hiển cho gia tộc, xóm làng. Khi mất lại được vua ban cáo mệnh phong tặng, vẻ vang cả nơi chín suối. Hai xã Đông Đoài chịu ơn và tưởng nhớ công đức cụ, đã phối thờ cụ ở trong đình, để mọi người tới đó kỷ niệm cụ không bao giờ mất vậy.
Khám thờ bốn thước, khu mộ tốt tươi, dựng tấm bia to, khắc sâu công đức.
Có bài minh ca ngợi rằng:
“Núi Sóc Sơn cao vút,
Sông Nguyệt Bảo trong xanh.
Nhà họ Lê ta ấy
Hàm chứa bao tinh anh.
Cụ đội ơn tiên tổ,
Gia sản giầu thêm nhanh.
Một đời làm việc thiện,
Con nối nghiệp cha anh.
Mọc lên cây ngọc quý,
Được triều đình tôn vinh.
Hiển hách tên tuổi ấy.
Còn mãi với trời xanh.
Bia đá này ghi khắc,
Không mờ mòn đức âm.
Núi Thái Sơn sừng sững,
Ngưỡng mộ mãi ngàn năm”.
Gia phả (bản khắc in) họ Đỗ ở làng Chương Dương, huyện Thường Tín tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây), những tấm gương sáng ngời về đạo đức của các cụ còn được viết xen kẽ thành những mẩu chuyện nho nhỏ, rất giầu ý nghĩa giáo dục và giá trị văn chương, đọc lên con cháu nhớ mãi. Xin nêu ra đây vài truyện.
1. Truyện nhường ao của cụ Đoan Lương
Cụ tổ đời thứ 6 là cụ Đoan Lương (húy Tông) thi đỗ Tam trường khoa thi Hương năm Quý Mão (1723) niên hiệu Bảo Thái thứ 4, làm quan Đồng tri châu châu Lộc Bình, xứ Lạng Sơn. Khi về hưu, cụ giữ chức văn trưởng hội Tư văn ở làng. Cụ có mua một cái ao, phía đông giáp chân đê, phía tây và nam liền với cái ao của ông Trung úy Lượng, phía bắc giáp đường xóm Thượng Phúc. Nguyên phía trước nhà ông Lượng có bốn cái ao liền bờ, vuông hình chữ điền, cụ mua một cái, ông Lượng mua ba cái. Ý ông Lượng muốn mua nốt cái ao của cụ, phá bỏ bờ thành một cái ao to để thả cá và trồng sen trước cửa nhà cho đẹp. Ông Lượng có lần hỏi mua, nhưng cụ không bán, nên ông Lượng để bụng thù.
Nhân ngày cuối năm, cụ cho người lên dọn ao, cắt cỏ xung quanh bờ cao và đánh cá ăn tết. Thấy vậy ông Lượng vu cho cụ là đẽo vạc chân đê, mở rộng ao, định làm đơn thưa kiện. Có người mách với cụ, cụ bèn gọi các con đến bảo rằng: “Việc dọn ao, cắt cỏ, đánh cá là việc nhà ta làm hàng năm. Nay ông Lượng muốn mua cái ao của ta không được, bèn vu ra chuyện đẽo vạc chân đê để đi thưa kiện. Gặp được quan thanh liêm thì chẳng nói làm gì. Nhưng thời buổi kim tiền này, quan thấy kiện như kiến thấy mỡ, nén bạc đâm bạc tờ giấy. Vả lại, quan bênh quan, đồng tiền trên lẽ phải, ta dù có lý đến mấy cũng thua. Cổ nhân có câu: “Thua kiện mười bốn quan năm, được kiện mười lăm quan chẵn”, mà đã gây sự kiện cáo, hẳn sinh oán thù, một đời kiện ba đời thù, như thế phỏng có ích gì?”. Sau đó cụ bèn chủ động đến nhà ông Lượng, bảo với ông Lượng rằng: “Ông muốn mua cái ao của tôi, phá bờ thành cái ao to trước nhà, trồng sen thả cá cho đẹp thì tôi nhượng lại cho, việc gì phải thưa với kiện”. Rồi cụ đưa văn tự ao cho ông Lượng.
Về sau, sau khi ông Lượng chết, con cháu ông Lượng không chịu làm ăn, ham mê rượu chè cờ bạc, lại đem chiếc ao to ấy bán cho cháu cụ là cụ Ôn Văn đời thứ 8.
2. Sự tích ngôi mộ cụ Ôn Văn
Ngôi mộ cụ Đỗ Đình Đại (hiệu Ôn Văn) đời thứ 8 để ở gò con Nhạn, xứ đồng Mật, làng Bạch Mai, tổng Kim Liên, huyện Thọ Xương, sau là huyện Hoàn Long, Hà Nội.
Năm Tân Mão (1831) cụ Đỗ Danh Tuấn 15 tuổi lên trọ ở làng Bạch Mai để lên Hà Nội học. Ở chỗ cổng làng Bạch Mai có bà bán nước chè tươi và quà bánh cho khách bộ hành qua lại. Như thường lệ, sáng nào cụ cũng ra đấy uống bát nước chè tươi nóng hổi, hút điếu thuốc lào, rồi mới đi lên Hà Nội học.
Một hôm cụ ra quán nước đã thấy một ông lão, áo quần rách rưới lôi thôi, râu tóc bạc phơ ngồi ở trong quán. Cụ vào uống nước xong, cầm lấy cái điếu, thông bã vê thuốc, châm đóm định hút. Vừa lúc ấy ông lão giằng điếu tranh hút. Cụ vui vẻ châm lửa nhường ông lão hút trước, còn mình thông bã hút sau, sắc mặt không có tí gì là bực tức. Cách hai hôm sau, ông lão lại tranh hút như trước, nhưng cụ vẫn một niềm kính cẩn, sắc mặt không hề bực tức. Cách ba ngày sau, ông lão vẫn tranh hút như hai lần trước, cụ vẫn một niềm vui vẻ mời ông lão hút trước. Khi ông cụ đi khỏi, ông lão hỏi bà hàng rằng cậu học trò này quê quán ở đâu bà có biết không? Bà hàng bảo, tôi nghe nói cậu ở dưới phủ Thường Tín lên đây trọ học. Ông thân sinh cậu là Tri huyện, Tri phủ gì đấy. Ông lão bảo: Con nhà gia thế có khác, có phúc mới có người con như thế.
Một hôm cậu đi học về, gặp ông lão ở Cầu Dền, ông lão gọi lại và bảo cho cậu biết, rằng lão chính là thảy Địa lí đi để đất cho thiên hạ, thấy đây có ngôi đất đẹp, lão thử xem nhà nào có đức thì sẽ để cho. Lão đã thử nhiều người, chẳng ai vừa ý. Nay thấy cậu khiêm nhường, lễ nghĩa, trọng người cao tuổi, lão để ngôi đất ấy cho. Cậu về thưa với quan nhà, lên mua thửa ruộng ấy. Nhớ đến ngày 16 tháng chạp, sớm tinh sương, có đủ mặt ở đấy, lão đến cắm hương cho. Nhớ mua thêm mươi thúng gạch vụn, cát, vôi bột, để lúc lấp huyệt cần dùng đến...
Đúng hẹn sáng sớm tinh mơ ngày 16 tháng chạp, ông lão đã có mặt, cắm đất đào huyệt, đặt quan tài, phân kim ngắm hướng xong, cho lấp đất. Lúc lấp đâts còn cách mặt ruộng ba gang tay, ông lão bảo trộn đều gạch, cát, vôi bột đổ xuống dầy một gang, tưới nước nện chặt (đó gọi là đất tam hợp, sau này cho con cháu dễ nhận), sau đó đắp đất lên như ngôi mộ khác. Ông lão còn bảo, nếu muốn xây phải đợi ngoài 100 năm mới xây và đặt mộ chí được. Khi cụ Trường Ấn (bố cụ Tuấn) đưa biếu lễ vật và tiền, ông lão không nhận, chỉ lấy 1 phẩm oản, 1 quả chuối mà thôi.
Tính đến năm an táng cụ là năm Tân Mão (1831) đến năm Bính Tý (1936) cháu đời thứ 12 là cụ Đỗ Danh Doãn (hiệu Tế Xuyên) xây mộ cụ vừa đúng 105 năm, đúng như thày địa lý nói. Nếu không có đất tam hợp thì năm Canh Tý (1900) bọn thù nghịch đã đào mất mộ rồi. Thực là công việc ở đời đều bởi ông Tạo hóa định liệu trước cả, người đời chỉ biết làm theo, đến đâu biết đấy. Cứ chịu khó làm lụng, thực thà hiền lành, ắt được hưởng lộc trời cho, chỉ có sớm muộn mà thôi.
3. Truyện đào trộm ngôi mội cụ Ôn Văn ở Bạch Mai
Ngôi mộ cụ Ôn Văn an táng ở gò con Nhạn, xứu Đồng Mật, làng Bạch Mai, huyện Thọ Xương, sau là huyện Hoàn Long, Hà Nội. Năm Canh Tý (1900) ở Chương Dương có kẻ thù nghịch cho người lên đào trộm, nhưng không được. Chuyện rằng:
Tối 30 tháng Chạp năm Canh Tý (1900) trời tối như mực, lại mưa phùn gió bấc, đêm tĩnh mịch vắng vẻ. Ở cổng làng Bạch Mai có cái điếm canh, cách ngôi mộ cụ Ôn Văn chừng 100m. Trong điếm có 7, 8 người tuần phiên canh gác. Họ chung nhau mua mấy con cá rán, ít xôi, chai rượu để đến lúc giao thừa cùng nhau nâng chén mừng xuân. Chính trong lúc mấy anh em trương tuần quây quân đánh bạc làm vui, thì ngoài mộ bọn thù nghịch đang đào trộm ngôi mộ cụ. Đúng lúc ấy, chợt có con mèo ở đâu đến tha mất con cá rán, bọn tuần vội đứng lên đuổi bắt mèo. Nhưng trời tối, họ chẳng biết mèo chạy đằng nào, chỉ hô hoán lên: “Nó kia, nó kia, bắt lấy nó!” Mấy tên đào trộm mộ nghe tiếng hô hoán, tưởng lộ chuyện, vội bỏ về thẳng. Sáng hôm sau, anh em đi tuần qua đấy mới biết ngôi mộ đêm qua bị đào trộm, đất cát đang còn bừa bãi. Cụ Diên, người chủ thửa ruộng và trông nom ngôi mộ, vội cho người xuống báo ngay cho cụ Xuân Trạch biết. Cụ Xuân Trạch liền lên làm lễ điền hoàn và đắp lại ngôi mộ như cũ.
Cụ Diên thường nói: “Từ ngày tôi trông nom ngôi mộ, tôi ăn nên làm ra, con cái học hành thành đạt, nên trông nom rất cẩn thận”. Việc đào trộm mộ ở Bạch Mai có nhiều người biết. Họ bảo nhau rằng: “Đó là quan Thổ thần hóa làm mèo vào tha cá để báo cho anh em tuần phu biết, chứ có phải mèo thật đâu, vì số cá rán chẳng mất con nào cả”. Về sau chuyện mới rõ ràng, có ông Bát Hanh, người làng Chương Dương đi lính cho Pháp, được ban hàm bát phẩm, bị cụ Xuân Trạch giật mất chức Tiên chỉ, nên để tâm báo thù, cho người lên đào trộm mộ.
Sau này con trai ông Bát hanh nghèo túng, phải quay về nhờ vả cụ Danh Doãn, là cháu đời thứ 12. Thế mới biết cổ nhân nói: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” chẳng sai tí nào.
4. Truyện vứt thuốc phiện vào thùng phân
Cụ tổ đời thứ 9 họ Đỗ ở Chương Dương là cụ Ôn Cung, thụy là Đoan Lượng. Cụ đỗ Cử nhân năm Ất Dậu (1825) lúc 29 tuổi, sau làm quan Tri huyện Lang Tài, thăng Tri phủ Quốc Oai, rồi giữ chức Lễ khoa Cấp sự trung. Thời kỳ cụ làm việc ở Khoa đạo 7 năm, hai lần đi thanh tra ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, lúc về chỉ có mấy gói thuốc Bắc, có quan Bố chính Bình Định là Phan đại nhân, người làng Phù Ủng, Hải Dương là người nghiện thuốc phiện, có tặng cụ hai lọ thuốc phiện, chừng độ 30 lạng. Cụ miễn cưỡng phải nhận để yên lòng người cùng xứ, làm quan nơi xa gặp nhau. Cụ xử sự cận với nhân tình như vậy đấy.
Về nhà cụ nói dối cụ bà rằng, đó là hai lọ thuốc cao, khi nào cụ bảo mở thì mới được mở.
Một hôm cụ bà đi vắng, cụ đem hai lọ thuốc phiện đó vứt vò thùng phân. Cụ bà về biết chuyện, có phàn nàn rằng: “Hai lọ thuốc đắt tiền, giá đến hơn 300 quan, sao không bán đi chẳng được món tiền to hay sao. Tiếc quá! tiếc quá!”. Cụ bảo: “Thuốc ấy là vật giết người, làm tan nát cửa nhà, mình đã không dùng, sao nỡ tham lợi bán cho kẻ khác kiếm vài trăm quan tiền thì yên tâm sao đánh!”. Kể từ khi cụ được bổ nhiệm chức Hữu kinh lịch tỉnh Quảng Trị, đến Giám sát ngự sử đạo Thanh Hóa, hơn 15 năm, dân gian có việc thưa kiện, trước cụ lấy điều nghĩa lý hòa giải, sau mới lấy luật phát phân xử nhanh chóng, không để đọng án, kéo dài dây dưa, tốn phí thời gian đi lại, phiền nhiễu cho dân.
Đấy, gia phả viết về ông cha như thế, con cháu muôn đời sau đọc đến, ai mà không cảm động, ai mà không tự hào. Những tấm gương sáng như thế, con cháu nào mà không noi theo. Trong ngôn ngữ ta có từ “bách tính”, nghĩa là trăm họ, đồng nghĩa với từ “quốc gia”, “dân tộc”, “đất nước”. Nhiều nhà họp thành họ, nhiều họ họp thành làng, nhiều làng họp thành nước. Mọi nhà, mọi họ làm việc thiện tất sẽ có nhiều phúc khánh. Cả nước làm việc thiện, nước tất sẽ hưng vượng.
Bài viết nhỏ này chỉ xin trích dịch một số đoạn, dăm ba truyện dồi dào cảm xúc về đạo lý uống nước nhớ nguồn mà trong bất cứ một cuốn gia phả của dòng họ nào cũng đều có thể tìm thấy, những mong tiếp thêm một chút ít sức mạnh tinh thần truyền thống cho chúng ta trên con đường chấn hưng dân tộc Việt Nam ta hôm nay(2).
Chú thích:
1. Canh tường: theo sách Hậu Hán thư - Lý Cố truyện: “Sau khi vua Nghiêu chết, vua Thuấn tưởng nhớ suốt 3 năm, khi ngồi như thấy bóng vua Nghiêu ở trên tường, khi ăn như thấy bóng vua Nghiêu ở trong bát canh. Sau đó, từ này được dùng như một động từ, chỉ sự tưởng nhớ không quên.
2. Cảm ơn bạn Đỗ Diễn Hịch đã cung cấp một số tư liệu về dòng họ Đỗ ở Chương Dương, Thường Tín, Hà Tây.
Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.115-128)
----------
Source: Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Thư tịch