Tuesday, February 18, 2014

Ngựa trong điêu khắc Kinh Bắc

Thứ sáu, 24/01/2014 - 09:29
 
Ngựa trong điêu khắc Kinh Bắc
 
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, ngựa gắn bó trung thành với con người trong cuộc sống và đã trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật. Có lẽ, hình tượng ngựa xuất hiện sớm nhất trong văn hóa tâm linh dân tộc Việt, đặc biệt với người Kinh Bắc là ngựa sắt hý ra lửa khiến giặc Ân bạt vía kinh hồn, sau khi chiến thắng, Thánh Gióng - nhân vật kỳ vĩ thuộc đời Hùng Vương thứ 6 đã cùng thần mã bay vào trời xanh.
 
Ngựa ở cửa võng đình Diềm (Hòa Long - TP. Bắc Ninh).        
Con ngựa sắt khổng lồ do Phù Đổng Thiên Vương cưỡi đã phản chiếu sự hân hoan của tổ tiên ta khi tìm thấy sắt và kỹ nghệ luyện rèn sắt thành những sản phẩm có kích thước hoành tráng và tinh xảo. Những bằng chứng khảo cổ học khai quật ở nhiều nơi trong vùng văn hóa Kinh Bắc đã cho thấy rằng: tại tầng đất thuộc thế kỷ IV trước Công nguyên có rất nhiều sắt. Đến thời Lý thì con ngựa có huân công trong việc quy hoạch xây dựng kinh đô Thăng Long là con ngựa trắng ở đền Bạch Mã (Thăng Long - Hà Nội). Khi Lý Công Uẩn - vị vua đầu tiên Nhà Lý thiên đô từ Hoa Lư ra Đại La, ông cho tu sửa lại thành cho xứng với tên gọi mới: Thăng Long “kinh sư bậc nhất của đế vương muôn đời”. Nhưng lần nào cũng vậy, dân chúng vừa đắp xong thì thành lại bị sụp đổ. Vua bèn làm lễ cầu thần Long Đỗ và chợt thấy con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu để lại vết chân tới đó, cuối cùng quay lại đền thì biến mất. Vua cho là điềm Trời mách bảo nên cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành không bị sụt lở. Tạ ơn thần linh trợ giúp, vua cho tạc tượng ngựa trắng để thờ, đặt tên đền là “Bạch mã linh từ”; sắc phong cho thần Long Đỗ làm “Quốc đô định bang Thành hoàng đại vương”, “Quảng Lợi tối linh thượng đẳng thần”.      
Ngựa trắng ở đây là một biểu hiện cho “linh khí ” đất nước, sự “hóa thân” của đức Phật. Nhờ “âm phù”, vua Lý Thái Tổ - người tôn Phật giáo là quốc giáo đã mở mang kinh đô bền vững theo quy luật phát triển tự nhiên (vết chân ngựa - tượng trưng cho sự vận động của Mặt trời: Từ Đông sang Tây tạo thành trục thần đạo sáng láng). 
Sau Bạch mã là đôi ngựa ở chùa Phật Tích (Tiên Du - Bắc Ninh), được chế tác khoảng giữa thế kỷ XI, bằng đá nguyên khối vùng Đông Triều (Quảng Ninh). Đôi ngựa nằm ngang hàng với các cặp voi, sư tử, trâu và tê giác. Hai con ngựa này béo tốt tạo nhiều khối căng tròn biểu hiện sự no đủ, sung túc. Đầu ngựa tạc chân thực, ngoảnh nhìn về phía đường đi. Bờm ngựa dài chải mượt rẽ đều về hai bên gáy. Kích thước ngựa gần như voi (1,17m x 1,43m x 0,7m), tư thế cũng quỳ sụp xuống đài Sen như voi nhưng tư thế chân hơi khác: Hai chân trước gập gối về phía sau, hai chân sau gập gối về phía trước, các móng guốc áp sát mặt bệ sen.
Ngựa còn xuất hiện trên đài sen, có nghĩa con vật tượng trưng cho tâm ý bồng bột lăng xăng đã được Phật giác ngộ, tự nguyện chở kinh đi khắp nơi để Phật giáo hoá chúng sinh. Ngựa thờ bằng gốm men thời Lý cũng được tìm thấy ở chùa Phật Tích.
Nói đến ngựa trong điêu khắc thời Lý không thể không nhắc đến “ngựa đá của giặc Ân” trên sườn núi Châu Cầu - Thất Gian (huyện Quế Võ). Ngựa đá có cánh như cánh Thiên Nga này được chạm theo phong cách Champa. GS sử học Trần Quốc Vượng đã “liên tưởng ngay đến hình ngựa Trà Kiệu. Ngựa Châu Cầu cũng như ngựa Trà Kiệu là biểu tượng môn thể thao Hất Phết (một trò chơi thế tục hoá tín ngưỡng mặt trời) rất thịnh hành ở Champapura và Đại Việt các thế kỷ X - XIII ”. Dấu tích ngựa đá, cột đá chứng tỏ rằng trên núi Châu Cầu - Thất Gian từng có một công trình chùa chiền chung đúc nhiều tài nghệ thợ thủ công Việt - Chăm.
Tại đền Đô (Đình Bảng - Từ Sơn) - nơi thờ 8 vị vua Nhà Lý, trên ván nong, phía dưới bao lơn của hàng cột cái và cột con chạm “Bát mã quần phi” (Bầy ngựa tám con đang phi) với các dáng điệu rất sống động: ngựa phi, ngựa lồng, ngựa nô rỡn, gặm cỏ, uống nước. Bức phù điêu phản ánh được đời sống thanh bình, phong lưu mã thượng của vùng đất Kinh Bắc - quê hương của các triều vua Lý.
Thời Lê-Trịnh,  ngựa được triều đình rất chú ý, Chúa Trịnh Căn đã có thơ vịnh: 
Danh ấy âu lên tót giá cao
Gấp hơn vật loại biết dường nào
Mình dường lân phượng gìn vẹn tốt
Vẻ tựa vân long điểm xuyết vào...
Trong điêu khắc, hình tượng ngựa sinh động, độc đáo và đa dạng hơn. Thế kỷ XVII, phổ biến nhất là loại ngựa thờ như “Vân mã” (ngựa bay trên mây) hay các loại ngựa bạch, ngựa hồng để biểu hiện cho cặp phạm trù  âm - dương, nóng - lạnh, nước - lửa. Ngựa trở thành con vật linh thiêng mang đôi cánh hình ngọn lửa hay dải cờ đuôi nheo ở hai chân trước. Ngựa chạm trên hương án chùa Bút Tháp (Thuận Thành) là một điển hình. 
5 bức phù điêu ngựa đá ở chùa Bút Tháp gây ấn tượng cho người thưởng ngoạn: bức chạm ngựa độc, bức chạm ngựa đàn, bức chạm ngựa đuổi hươu. Trên lan can phía trước bên trái thượng điện nghệ nhân chạm 2 ngựa chạy nước kiệu, con đi trước quay lại nhìn con phía sau. Cả 2 con ngựa đều có vóc dáng tròn lẳn, dẻo dai, chắc khỏe .
Trên bức lan can cuối cùng bên thành trái cầu đá, diễn tả một bầy 5 ngựa trên một bãi cỏ rộng: con nhởn nhơ gặm cỏ, con đưa chân gãi mép, con  tung tăng chạy nhảy, con đưa chân đá bạn, con khác thì nằm ngửa giơ 4 vó lên trời.
Bức đầu hồi thượng điện và bức mặt ngoài lan can phía bên trái cầu đá đều là đề tài ngựa đuổi hươu. Đẹp hơn cả là bức chạm trên cầu bởi thể hiện được không khí sôi động của cuộc rượt đuổi. Ngựa và Hươu đều nhảy bổ từ trên cao xuống, con nào cũng rướn mình, sải dài chân mà chạy. Để diễn tả tốc độ “nhanh như gió, như chớp”, nghệ nhân đã tạo thêm nhiều dải mây quấn trên thân con vật, các dải mây đều lướt về phía sau. Đây là một trong bức chạm đá xuất sắc nhất của chùa Bút Tháp.
So với các tác phẩm điêu khắc về ngựa thì bức chạm ở chân cửa võng đình Diềm (Hòa Long - TP. Bắc Ninh) cũng thuộc loại “hiếm có khó tìm”. Dân gian có câu: “chớ mó dái ngựa” kẻo nó đá chết người, thế mà nghệ nhân xưa rất hài hước, dí dỏm khi tạc cảnh một người đàn ông đứng bên ngựa, dưới bụng ngựa lại có một người đang sờ vào bộ phận sinh dục con ngựa. Phải chăng, bức phù điêu thể hiện tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp cầu cho vạn vật sinh sôi?
Đến thế kỷ XVIII, nếu hình tượng ngựa ở lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa - Bắc Giang) đậm chất hiện thực thì hình tượng ngựa ở Từ Vũ - một di tích lịch sử văn hóa Quốc gia của họ Trương ở Như Quỳnh (xưa thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc) lại vượt hình thể bình thường biến thành Long Mã đầu rồng, thân ngựa, vẩy cá chép, chân hươu, đuôi bò - tượng trưng nguồn nước, tư tưởng cứu nhân độ thế.
Đúng là, mỗi thời đại mỗi ý tưởng sáng tạo khác nhau khiến cho nghệ thuật điêu khắc cổ điển Kinh Bắc nảy nở. Di sản quý báu đó cần được bảo tồn cho muôn đời.
Trương Thị Kim Dung
 

Saturday, February 15, 2014

Mùa Xuân trên quê ngoại Nguyễn Du

Thứ sáu, 13/04/2012 - 08:35
 
Mùa Xuân Kinh Bắc, mưa bụi phơ phất giăng tơ khắp trời. Không khí xóm làng như thực như mơ. Thiên nhiên trải bày bức tranh thuỷ mặc. Đến với làng Kim Thiều, tưởng mình trở về với ký ức thi hào Nguyễn Du trong nhịp điệu lách cách như Ả Đào gõ phách ngàn năm của một làng nghề sản xuất đồ gỗ chạm khắc nằm trong quần thể chạm khắc gỗ của phủ Từ Sơn, Đông Ngàn xưa...
 
Một phần của quần thể lừng danh 
  
Miền quê này dễ đưa đẩy tâm hồn du khách nhập vào những làn điệu dân ca Quan Họ ngọt ngào mê đắm, những huyền thoại lịch sử đượm vẻ linh thiêng, những di tích thâm nghiêm. Và nhịp sống nồng nàn hôm nay như mời gọi bước chân vui dạo. Trên những đường thôn ngõ xóm sạch sẽ phong quang dù lát gạch hay đổ bê tông thì những nếp nhà vẫn giữ được nét tươi mát, duyên dáng bên luỹ tre rặng chuối...
 
Tiện nghi sinh hoạt trong các gia đình tương đối đầy đủ: sập gụ, tủ chè khảm trai, ti vi, xe máy, và một số người còn sắm cả ô tô chạy hàng...
 
Mặc dù kinh tế đã khấm khá nhưng người dân Kim Thiều vẫn chịu thương chịu khó sớm khuya và không quên cội nguồn, thuần phong mỹ tục của địa phương từng được gần xa bao đời ca ngợi.
 
Ngôi làng cổ Kim Thiều - quê ngoại của thi hào Nguyễn Du còn có tên chữ là Hoa Thiều, tên Nôm là làng Mấc, thuộc xã Ông Mặc, trấn Kinh Bắc, nay thuộc Hương Mạc (Từ Sơn - Bắc Ninh). Kim Thiều cùng với Phù Khê, Trang Liệt, Đồng Kỵ, Hương Mạc, Vân Hà tạo thành quần thể chạm ngà, chạm gỗ lừng danh ở Kinh Bắc và nước ta.
 
Lượn quanh những ngõ xóm đầm ấm, thanh bình, tâm trí cứ thầm tìm kiếm dấu vết cậu Chiêu Bảy từng sống với người mẹ trẻ xinh đẹp cùng các anh chị em ở quê ngoại thời thơ bé. Cánh đồng Hiên xanh mướt lúa khoai, chấp chới cánh cò trắng muốt trước minh đường nhà thờ họ Trần kia có liên quan gì đến bút hiệu Thanh Hiên của Nguyễn Du?
 
Suốt mấy trăm năm nay, thiên hạ vẫn cho rằng: Nguyễn Du (1765- 1820) -  tác giả “Truyện Kiều” nổi tiếng thế giới là sự hội tụ, thăng hoa linh khí văn chương của hai vùng đất có bề dày lịch sử - văn hoá: Hà Tĩnh quê cha, Kinh Bắc quê mẹ.
 
Họ Trần danh gia vọng tộc 
  
Theo gia phả Nguyễn (Tiên Điền - Nghi Xuân) thì gia đình Nguyễn Du thuộc loại trâm anh thế phiệt, nhiều đời hiển hách “cha con, anh em, chú bác đều là người khoa giáp, làm quan to thời Lê - Trịnh”.
 
Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (1707 - 1775) thân phụ Nguyễn Du đã đỗ Tiến sĩ, giữ chức Đại tư đồ Bình nam Tả tướng quân (tức Tể tướng triều đình). 4 chữ “Cổ Kim Nhật Nguyệt” khảm vàng son trên bức đại tự treo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là bút tích thư pháp và 2 cây đại hoa vàng trước cửa Thái học là kỷ vật của đại thần văn võ song toàn Nguyễn Nghiễm đối với trường Đại học đầu tiên của nước ta...
 
Họ nội đã vậy nhưng họ ngoại và quê mẹ Nguyễn Du cũng “môn đăng hộ đối” không kém. Nhiều bộ gia phả của các dòng họ làng Hoa Thiều và toàn xã Ông Mặc có ghi chép về gái vùng này vừa đẹp vừa đảm, thường được các triều đại tuyển chọn phi tần. Không chỉ có nghệ nhân giỏi được kén vào cung đình làm đồ mỹ nghệ và trang trí nội thất cho vua chúa mà còn lừng danh khoa bảng, toàn xã có 22 Tiến sĩ kể từ thời Trần đến thời Nguyễn (theo “Danh công truyện ký”). Thời nay số giáo sư, Tiến sĩ trong các lĩnh vực cũng gần gấp đôi con số đó. Tại xã có 11 di tích được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia thì 9 di tích thuộc về các dòng họ như Đàm (Đàm Thận Huy), Nguyễn (Nguyễn Giản Thanh), Đỗ (Đỗ Đại Uyên), Nguyễn Hữu (Mai Động), Trần (Trần Ngạn Húc).
 
Ngay tại làng Hoa Thiều, dân gian còn truyền tụng câu chuyện Tể tướng Nguyễn Nghiễm lấy cô thôn nữ Trần Thị Tần làm trắc thất. Sinh ngày 8 tháng 7 năm Canh Thân (tức 24-8-1740) bà Trần Thị Tần - con gái quan Câu kê thuộc đời thứ 9 của dòng họ Trần ở Hoa Thiều. Khi kết hôn, Tể tướng hơn người vợ thứ ba này 32 tuổi. Theo bản gia phả của họ Nguyễn ở Tiên Điền thì Tể tướng Nguyễn Nghiễm có 8 vợ và 21 người con. “Hoa thơm đánh cả cụm”, vợ cả, vợ hai của Xuân Quận ông Nguyễn Nghiễm là hai chị em ruột họ Đặng: Đặng Thị Dương và Đặng Thị Thuyết đều biết hát Ca trù.
 
Bà Trần Thị Tần sinh được 5 người con (4 trai, 1 gái). Anh chị em của Nguyễn Du ra đời với thứ tự: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du và Nguyễn Ức. Nguyễn Trụ, con trưởng mất từ nhỏ, Nguyễn Nễ con trai thứ hai hơn Nguyễn Du 4 tuổi. Nguyễn Ức, con trai út.
 
Nguyễn Du sinh ra ở Kinh Bắc và các anh chị em của ông đều sống với mẹ tại Hoa Thiều. Vùng quê này còn là nơi lánh nạn của gia đình anh trai (Nguyễn Nễ - Trương Thị Ngọc Bình) khi triều đình Lê - Trịnh ở thế kỷ XVIII bị biến loan.
 
Trong ngôi Từ đường treo bức đại tự “Tiến sĩ từ”, ông trưởng họ Trần đã cho tôi xem gia phả.
 
Cụ tổ thứ nhất (không rõ tên, sau cháu chắt đặt hiệu là Phổ Khánh) lúc đầu lập cư ở Ngô Trực (Hương Mặc). Khi cụ mất, quan Trần Thái Sử chọn miếng đất ở gò Chử (thôn Cổ Trâu nay thuộc Phù Khê) rộng hơn sào, có núi Thái Sơn làm án, có gò hình thước ngọc. Đúng giờ chính Tý (12 giờ đêm) thì hạ huyệt, mạch theo hướng Tý dẫn vào. Quan Thái sử bảo: Long mạch đắc địa sẽ phát vào đời thứ 5. Quả nhiên, Trần Ngạn Húc sinh năm Giáp Tý (1504) đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất giữ chức Thái Bảo. Thân phụ ngài là Trần Tôn (1472 - 1546) (hiệu Nhiễm Khê) thi hội trúng Tam trường. Vua Lê ra đề thi “Phụng thành xuân sắc phú” thì bài của Nguyễn Giản Thanh xếp thứ nhất, bài của Tiến sĩ Hứa Tam Tỉnh xếp thứ hai, bài của Tiến sĩ Trần Tôn xếp thứ ba. Cụ Trần Tôn được bổ làm tri huyện phủ Ứng Thiên (Thăng Long) và được vua phong Tham nghị, tham chính đại phu. Cụ kết hôn với Trinh Từ Ngọc Uyển (1478 - 1552) con gái cụ Tiến sĩ Nguyễn Giản Liên và là chị gái Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh.
 
Tiến sĩ Trần Phi Nhỡn (tổ đời thứ sáu) làm quan to triều Mạc, mất tại Cao Bằng; là cháu đích trưởng cụ Trần Tôn.
 
Theo sự truyền tụng thì họ Trần (Kim Thiều) là hậu duệ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng lỗi lạc của dân tộc đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (thế kỷ XIII).
 
Trong trận Bạch Đằng, những nghệ nhân họ Trần (Kim Thiều) từng rèn đúc Thiết toả (khoá sắt) để giữ chắc những cọc gỗ lim được chằng dây xích đóng xuống lòng sông cửa biển chặn thuyền chiến giặc.
 
Hồn quê trong danh nhân 
  
Họ Trần danh gia vọng tộc và làng Hoa Thiều đã để lại nhiều kỷ niệm thân thương đối với Nguyễn Du trong quãng đời thơ ấu, hoa niên từ lúc trứng nước đến khi 10 tuổi thì mồ côi cha, 13 tuổi lại chịu thêm tang mẹ. Sau “đại sự” của thân phụ mẫu, cậu chiêu Bảy Nguyễn Du phải rời quê ngoại đến sống với anh trưởng cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản - đại thần trong phủ chúa Trịnh, giữ chức Tả thị lang Bộ Hình, có dinh thự lớn ở phường Bích Câu (Thăng Long), thì Nguyễn Du có nhiều lần trở về quê mẹ, nghe hát quan họ, vãn cảnh thiên nhiên, thắp hương nhà thờ Tổ. Bên bờ sông Hồng, hơn hai trăm năm trước có lần nào nhà thơ lớn thầm nhỏ lệ trước khung cảnh mênh mang sông nước:
 
“Chiều chiều ra đứng bờ sông
Trông về quê mẹ mà không có đò”
 
Cũng như bao người khác sau khi đọc thơ chữ Hán và Truyện Kiều, tôi cứ thầm hỏi những điều còn ẩn ức trong tâm khảm về chàng Tố Như và chưa tìm ra được lời giải đáp. Chỉ có điều xoa dịu trái tim thời nay là bậc thày thiên tài thi ca Nguyễn Du đã thừa hưởng “gen” thông minh, tài hoa của dòng họ nội - ngoại đều thành đạt về khoa bảng và không khí sinh hoạt hào hoa, nho nhã với nền học vấn uyên thâm của Thăng Long - Kinh Bắc - Hà Tĩnh. Ông có cuộc sống thăng trầm dâu bể và sự thấu hiểu sâu sắc nhân tình thế thái qua ba triều đại (Lê -Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn). Tất cả những yếu tố ấy đã góp phần tạo nên cốt cách nhân bản và văn tài siêu việt khiến nhân loại thế giới ngưỡng mộ.
 
Trương Thị Kim Dung
 

Nhớ Mãi Khôn Nguôi - Dân ca Quan họ - Minh Thanh



vietnamcultures
Uploaded on May 26, 2010

Friday, February 14, 2014

NGÀY XUÂN MƠ VỀ XỨ DŨNG - Tùy bút JM. Lam Thy Đinh Văn Diệm

NGÀY XUÂN MƠ VỀ XỨ DŨNG
Tùy bút JM. Lam Thy Đinh Văn Diệm

Ngày Xuân nhàn rỗi miên du,
Đắm trong tiếng nhạc ca trù đê mê.
Chỉ mong có dịp trở về,
Về thăm quê cũ thỏa thuê cõi lòng.
Ai về biển lúa mênh mông,
Xứ Dũng Vy – lũy tre đông tiếng cười,
Cho ta gửi chút bồi hồi,
Vũng tâm tư của con người phiêu linh.

Ảnh: Tác giả JM. Lam Thy Đinh Văn Diệm
Lại thêm một mùa Xuân nữa đi qua trong cuộc đời, thêm một bước tiến gần tới Bình Hưng Hòa. Nghe tên gọi thì thấy có vẻ hấp dẫn, vì Bình Hưng Hòa là Hưng-phấn-trong-hòa-bình. Được tiến tới nơi hòa bình hạnh phúc, thì hưng phấn, phấn khởi là cái chắc! Nhưng khổ một nỗi địa danh Bình Hưng Hòa lại là tên gọi một Nghĩa trang của Saigon. Cách đây vừa đúng 15 năm, vào ngày 5/2/1999, bà xã đã chê Đinh-to-đầu, về an nghỉ tại đó. Thế thì nên vui hay nên buồn? Được sum họp với hiền thê thì vui mới phải lẽ, tại sao lại buồn?

Nói tới nghĩa trang, tự nhiên nhớ đến một danh xưng mới được nghe cách đây hơn nửa năm: Vườn Thánh. Kể cũng hay, trước đây gọi là Nghĩa địa  (義 地) hay Nghĩa trang (義 莊) là vùng đất (hay trang trại) hàm chứa những việc làm tốt đẹp (chôn cất người chết là một nghĩa cử cao đẹp, thánh thiện). Còn gọi là Vườn Thánh thì không phải đó là khu vườn của các Thánh, mà phải hiểu đó là khu vườn lành thánh (nơi thể hiện những nghĩa cử tốt đẹp, thánh thiện). Tôi có hơi dài dòng về từ ngữ, đó chỉ vì những cảm xúc ngày Xuân nhàn rỗi đưa tôi về với cố hương Dũng Vy.

Với tôi, nói về Dũng Vy thì không bao giờ vơi cạn được xúc cảm, vì những ký ức mang đậm dấu ấn những kỷ niệm thời thơ ấu luôn đầy ắp trong tâm tư. Khi làm tập Kỷ Yếu Dũng Vy, tôi cũng đã viết rất nhiều về nơi chôn rau cắt rốn (chôn nhau cắt rốn) chan đầy những kỷ niệm sâu sắc khôn nguôi: 

* KYDV số 1 có những bài: CỐ HƯƠNG KÝ, XỨ DŨNG QUÊ TÔI, NHẮN VỀ XỨ DŨNG, TĨNH DẠ TƯ, NGẢ ẤY VỚI TRÔNG, THĂNG TRẦM, KHÔNG LỜI, NGHE VẺ NGHE VE, NGƯỜI CON GÁI XÓM CẦU VE (hồi  ký), NGŨ QUÁI ĐĂNG TRÌNH, BÁC TÔI. 

* KYDV số 2 có những bài: GIÓ BỐN PHƯƠNG, BUỔI ẤU THỜI, NGƯỜI CON GÁI XÓM CẦU VE (thơ), GẮN BÓ, LAM THY TỰ BẠCH, TẠP BÚT, TRẦU KHÔNG, NHỚ VỀ CHA CỐ MẪN (linh mục Nguyễn Khắc Mẫn), TƯỞNG NHỚ NGƯỜI QUÁ CỐ (nhớ về linh mục Phạm Quang Tự), THU TRONG THƠ, VÈ NHÂN DANH, TÌNH CHA CON (viết về linh mục Ngô Văn Yên).

Tới tháng 6/2013, thì Giáo xứ Dũng Vy lại tiếp tục trùng tu Thánh đường và Nghĩa trang. Những hình ảnh sau đây in đậm trong tâm tư người con xứ Dũng tha hương:

1/- XÂY DỰNG TƯỢNG ĐÀI THÁNH CẢ GIU-SE:


Công trình này được Hội đồng Mục vụ Giáo xứ Dũng Vy nói là làm Tượng đài Thánh Cả Giu-se ở bên cánh tả (bên trái, phía Tây) nhà thờ cho cân xứng với Tượng đài Đức Mẹ bên cánh hữu (bên phải, phía Đông) nhà thờ. Đó là về hình thức, còn về nội dung, thì có ý nghĩa như một Thánh gia Na-da-rét: Hai bên là Cha (Dưỡng Phụ Giu-se) và Mẹ (Hiền Mẫu Maria) ở giữa là Người Con (Đức Giê-su Con Thiên Chúa) cùng tiến về Đền Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc. 

2/- TRÙNG TU NGHĨA TRANG:


Như đã nói trên, công trình này mang ý nghĩa rất lành thánh. Ghi nhớ công ơn tổ tiên, cầu cho các đẳng linh hồn, chính là hướng về các ngài trong tâm tình “uống nước nhớ nguồn”, một truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam.

3/- TU SỬA GÁC ĐÀN:


Ngoài ra, Giáo xứ cũng không quên tu sửa lại Gác Đàn – Nơi để những lời ca tiếng hát của Giáo dân Dũng Vy vang lên chúc tụng Thiên Chúa và ngấm sâu vào tiềm thức con dân xứ Dũng ở khắp nơi trên thế giới.

Quả thật, công trình xây dựng Tượng đài Thánh Cả Giu-se, trùng tu Thánh đường và Nghĩa trang Dũng Vy lần này đã gây ấn tượng rất mạnh và để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc khó phai mờ. Nó đã gói ghém trong lá thư cảm ơn tôi gửi bà con Dũng Vy ở hải ngoại: 

THƯ CÁM ƠN

Kính gửi quý anh chị, các em và các cháu (gốc Dũng Vy – Tiên Du – Bắc Ninh), cùng các bạn bè của cháu Tony Thắng Đinh thân mến.

Trong lá thư đầu tiên gửi cháu Thắng, tôi có viết: Vừa rồi Hội đồng Mục vụ Giáo xứ Dũng Vy có trao đổi với cậu v/v quy tập lại nghĩa trang Giáo xứ, đồng thời chỉnh trang khuôn viên Nhà thờ và dựng tượng đài Thánh Giuse Quan thầy Giáo xứ nhà. Công việc tiến hành tốt đẹp, nhưng thiếu kinh phí. Vì thế, Cha chính xứ cũng như Hội đồng Mục vụ có ý muốn nhờ cháu kêu gọi bà con Dũng Vy ở hải ngoại chung tay trợ giúp… Cậu mong cháu hết lòng giúp đỡ theo khả năng, nhất là kêu gọi bà con cùng tham gia như một hành vi thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng “chứng tá bác ái” (*) như lời dạy của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôsê: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” (Cl 3, 14).
  
Thật không thể ngờ cháu Thắng đã tận tình giúp đỡ, kêu gọi bà con Dũng Vy (kể cả những bạn bè thân của cháu Thắng) ở hải ngoại và được mọi người (trực tiếp hay gián tiếp) hưởng ứng một cách rất nồng nhiệt. Năm nay là năm toàn thể Giáo Hội sống “Năm Đức Tin” (11/10/2012–24/11/2013), khi viết những dòng này, tôi cứ như được nhắc nhở bởi một lời dạy của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: “Bất cứ ai khởi đầu con đường làm điều thiện cho người khác thực sự đã tiến lại gần Thiên Chúa” (Thông điệp “Ánh sáng Đức tin – Lumen Fidei”, Chương 2), và nhất là lời thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galat: “Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 13-14). Công việc tiến hành tốt đẹp như vậy, phải chăng là vì chúng ta cùng là những kẻ ly hương, cùng chung một tấm lòng hướng về cội nguồn, và cùng là con cái Đấng Tối Cao, hằng mong mỏi được “tiến lại gần Thiên Chúa” mỗi ngày một hơn?

Tôi thật sự không biết nói gì hơn là xin thay mặt toàn thể dân làng Giáo xứ Dũng Vy chân thành gửi đến tất cả bà con lời tri ân nồng nhiệt nhất. Nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho quý vị. Đồng thời, cũng xin báo để bà con rõ: Cách đây khoảng 2 tuần, ông trùm Nam (Chủ tịch Hội đồng Mục vụ Gx Dũng Vy) có cho biết là đã dựng tượng Thánh cả Giuse ở khuôn viên Thánh đường (sân phía tây nhà thờ, nơi nhà ông Tình, ông Bái trước kia), còn công việc Vườn Thánh (nghĩa trang) vẫn đang tiến hành rất khả quan. Vì thế, xin nhắc cháu Thắng là cố gắng đúc kết trước ngày 31/8/2013 (như cháu đã thông báo cho bà con trước đây), để kịp gửi tiền về cho Giáo xứ nhà hoàn tất công trình. Nếu ai chưa gửi thì cũng xin gửi ngay cho cháu Thắng theo địa chỉ:
 
Tony Thang Dinh 
728 Madison St. Coppell, TX 75019, USA
ĐT di động: 214-228-0223.

Cháu Thắng có nhiệm vụ lập danh sách ân nhân với tổng số tiền quyên góp được, gửi về Giáo xứ Dũng Vy. Sau khi Dũng Vy nhận tiền, tất nhiên sẽ có hồi báo tri ân, lúc đó cháu sẽ công khai thông báo cho toàn thể ân nhân ở hải ngoại được rõ. 

Một lần nữa, nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh cả Giuse Quan thầy, nguyện xin Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả chúng ta trong công tác thi hành “chứng tá bác ái” thánh thiện này.

Thân mến chào toàn thể.
Saigon ngày 19/8/2013 
Joseph Marie Lam Thy Đinh Văn Diệm
---------------------------
Chú thích: (*) Có nhiều người gửi thư thắc mắc về cụm từ “Chứng tá bác ái”, xin trả lời: Theo Từ nguyên thì “Chứng tá” 證 佐 (đồng nghĩa với “Chứng nhân” 證 人 ) là: Chứng cớ, người làm chứng, nhân chứng. “Chứng tá bác ái” là những việc làm biểu lộ tình yêu thương rộng khắp. Thực hiện “chứng tá bác ái” là thực hiện Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 9), với mục đích tối hậu là minh chứng cho Tình Yêu của Thiên Chúa.
-----=+=-----

Sau lá thư nêu trên, tới tháng 9/2013, cháu Thắng đã kết toán và số tiền quyên góp đươc là 7.400 USD (xc. THƯ CÁM ƠN của HĐMV Giáo Xứ Dũng Vy ngày 16/9/2913 – Blog Kỷ Yếu Dũng Vy, trang “văn bản và hình ảnh”). Tới tháng 11/2014, một ân nhân không phải người Dũng Vy, mà là thân phụ một người bạn thân của cháu Thắng lại ủng hộ 1.000 USD (xc. THƯ CÁM ƠN  của HĐMV Giáo Xứ Dũng Vy ngày 30/11/2013 – Blog Kỷ Yếu Dũng Vy - ibid), nâng tổng số lên tới 8.400 USD. Một con số vượt quá sự mong ước của bản thân tôi khi nhờ cháu Thắng xúc tiến công việc. Tiện đây cũng xin được trích những bài viết về công việc lành thánh này: 

BỨC TÂM THƯ

Thân gửi: Toàn thể hàng hậu duệ Giáo xứ Dũng Vy – Giáo phận Bắc Ninh. 

Trong dịp trùng tu Thánh đường và vườn Thánh Giáo xứ Dũng Vy kỳ này, tôi bắt gặp 2 cảm xúc tuyệt vời: 

1- Trong công việc quyên góp lòng hảo tâm của bà con gốc Dũng Vy ở hải ngoại, lúc đầu tôi chỉ nghĩ với tình hình kinh tế khó khăn hiện tại, nếu có cố gắng cũng chỉ được khoảng 2.000 tới 3.000 USD là cùng. Không ngờ kết quả đã vượt xa lòng mong mỏi của tôi, một con số quá đẹp: 7.400 USD. Được như vậy chính là nhờ công của cháu Thắng đã rất nhiệt tình, năng nổ trong công việc. Tất nhiên, nếu chỉ kể công của cháu Thắng mà không có sự hưởng ứng nồng nhiệt của bà con, thì cũng chỉ là công “Dã tràng xe cát biển Đông” mà thôi. Ngược lại, nếu chỉ có lòng hảo tâm, mà không có một động lực thúc đẩy, thì lòng hảo tâm đó cũng không có cơ hội được thể hiện. Cho nên phải nói là cháu Thắng với sự nhanh nhạy của tuổi trẻ, nhất là tấm chân tình đối với quê hương, đã “gãi đúng chỗ ngứa”, để cuối cùng có được thành quả tốt đẹp như vậy. 

2- Trong khi tiến hành công tác, cậu cháu tôi thường xuyên trao đổi qua thư điện tử (email), và cũng nhờ Thắng cất công truy cập trên internet, tôi mới biết được những bài viết chia sẻ Tin Mừng của tôi đã được rất nhiều trang web Công Giáo trong nước và hải ngoại trích đăng. Tôi chỉ gửi bài cho 3 trang web www.thanhlinh.net; www.tinmung.net; www.daobinhducme.net ; không ngờ lại được nhiều nơi mến mộ trích đăng như vậy. Và cũng nhờ truy cập trên internet qua tên của tôi (JM. Lam Thy Đinh Văn Diệm), cậu cháu tôi lại phát hiện ra trang web “Kỷ Yếu Dũng Vy” do cháu Đinh Tất Thức chủ biên. Quả thật bất ngờ khi một công trinh hướng về quê cha đất tổ thực hiện từ năm 2.000, tưởng đã trôi vào quên lãng, nay lại được cháu Thức khơi dậy và phổ biến. 

Từ 2 cảm xúc mãnh liệt đó, tôi có được một ấn tượng sâu xa về tầng lớp hậu duệ của Quê Mẹ Dũng Vy. Các bậc tiền nhân đã quy tụ cõi vĩnh hằng, gần đây nhất là cụ Lễ, cụ Cam cũng đã về chầu tiên tổ. Lớp tuổi chúng tôi đã ngoài “thất thập cổ lai hi” (bảy chục tuổi xưa nay hiếm), cũng đang chuẩn bị hành trang “lên xe hoa” về với tổ tiên. Như vậy thì tầng lớp kế thừa chính là lớp hậu duệ Dũng Vy (con cháu chúng tôi) ở trong nước và hải ngoại. Mong rằng các cháu – dù ở chân trời góc biển nào – cũng luôn một lòng hướng về cội nguồn trong tâm tình những người con thảo hiếu đối với Quê Cha Đất Tổ. 

Tâm tư chan đầy cảm xúc, tôi không thể viết tiếp được nữa. Xin được tạm dừng. Nguyện xin Thiên Chúa – nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Cả Giu-se Quan Thầy – chúc phúc và ban nhiều ơn lành phần hồn phần xác cho tất cả chúng ta. Luôn tiện, xin gửi đến toàn thể bà con gốc Dũng Vy “ĐÔI DÒNG TÂM SỰ” (đã viết cách đây ít ngày). 

Thân mến, 
Saigon, ngày 25/9/2013 
Joseph Marie Lam Thy Đinh Văn Diệm 


ĐÔI DÒNG TÂM SỰ

Nhân dịp Giáo xứ Dũng Vy tổ chức trùng tu Thánh Đường (dựng Tượng đài Thánh Cả Giu-se Quan Thầy) và quy tập Nghĩa trang Giáo xứ, xin gửi đến toàn thể Giáo dân Dũng Vy trong và ngoài nước đôi dòng tâm sự: 

Như tôi đã viết trong Kỷ Yếu Dũng Vy (vào những năm đầu thế kỷ XXI – năm 2000-2001), với tâm tình của người con xa quê hương luôn hướng về Quê Mẹ, đong đầy kỷ niệm ăm ắp Tình Quê, tôi luôn ao ước cho Giáo họ Dũng Vy (thuộc Giáo xứ Cẩm Giang – Địa phận Bắc Ninh) đã kiên cường trường tồn qua hơn một thế kỷ, sẽ ngày một thăng tiến trên hành trình loan báo Tin Mừng, mở mang Nước Chúa. Quả thực lòng khao khát của chúng tôi đã được đáp ứng, Giáo họ Dũng Vy nay đã trở thành Giáo xứ. Đó là một niềm vinh dự cho tất cả chúng ta. 

Thánh Au-gus-ti-nô đã dạy: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người”. Một lời nói mới thoạt nghe thì thấy có vẻ không ổn, nhưng suy xét cho thấu đáo, thì quả thực đó là một chân lý. Ngay từ khi Đức Giê-su thiết lập Giáo Hội tiên khởi, với 12 Tông đồ nòng cốt (“Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê – Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi –, rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.” – xem “Mac-cô 3, 16-19”). Đặt giả thử nếu cả 12 môn đệ đó đều như Giu-đa It-ca-ri-ốt thì liệu công trình cứu độ của Thiên Chúa có thực hiện được không? Chắc chắn là không. Và vì chỉ có một Giu-đa It-ca-ri-ôt phản bội (không cộng tác), còn lại 11 môn đệ một lòng trung thành cộng tác mật thiết với Đức Giê-su Ki-tô, nên trải qua hơn 20 thế kỷ mới có một Giáo Hội Công Giáo với hàng tỉ tín hữu hiện diện trên khắp địa cầu như hiện nay. 

Có thể nói được rằng Giáo dân Dũng Vy từ ngày tòng giáo vào cuối thế kỷ XIX (khoảng từ 1883 đến 1890), đã hết lòng tin tưởng và cộng tác với Thiên Chúa, với Giáo Hội, nên mới có một Giáo xứ Dũng Vy như ngày hôm nay. Không những thế, đời sống đạo cúa Giáo dân Dũng Vy cũng hết sức sốt sắng trong đời sống cầu nguyện (dâng lễ, đọc kinh sớm tối), trung kiên trong đời sống hoạt động nơi cộng đồng xã hội (từ bản quán đến nhiều tỉnh thành trong cả nước Việt Nam lẫn ở hải ngoại). Một minh chứng hùng hồn cho tinh thần sống đạo tốt đẹp đó là cho đến ngày nay, Giáo xứ Dũng Vy đã có được 4 Linh mục và một Phó tế. Đó là: 

* Cha Giu-se Đinh Quốc Trụ, con ông bà Đinh Văn Túy (thuộc gia đình ô Lý Canh). 
* Cha Giu-se Đinh Tấn Hoài + Cha Giuse Đinh Minh Hoàng, con ông bà Đinh Văn Hòa (thuộc gia đình ông Đinh Văn Đạo – ô Đường). 
* Cha Giu-se Đinh Tuấn Việt, con ông bà Đinh Văn Goòng (gđ ô Đinh Văn Quỳnh). 
* Phó tế Phao-lô Bùi Ngọc Linh, con ông Bùi Bằng Đổng và Nguyễn Thị Ren (Ren là con ông Trùm Hiểm – Nguyễn Ích Niết). 

Ấy là chưa kể một số nữ tu: Sæur Đinh Thị Tuẩn (con cụ Chánh hội Tề – Đinh Văn Đẩu), Sæur Nguyễn Thị Riêng, em ông Nhận (con cụ Ngữ), Sæur Nguyễn Thị Tiên (quen gọi là cô Mầu, con cụ Khóa Hà), Sæur Nguyễn Thị Hùy (con ông bà Nguyễn Khắc Thiện), và còn một số nữa..., nhưng không nhớ được hết. 

Nhờ đâu mà có sự cộng tác tốt đẹp đó? Chính là nhờ một nền tảng Đức Tin vững mạnh. Vâng, “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô). Nền tảng đức tin vững mạnh ấy có được phải chăng là do ân sủng Thiên Chúa trao ban? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong bài giảng ngày thứ tư 24-10-2012 tại quảng trường thánh Phê-rô, đã trả lời cho câu hỏi đó: “Đức tin là một ơn của Thiên Chúa, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người, tín thác nơi Thiên Chúa, là Đấng yêu thương nó.” Vậy thì phải nói chính Thiên Chúa đã ban Đức Tin cho chúng ta thông qua những cộng tác viên đắc lực của Người như Đức Maria, Thánh cả Giu-se, các Thánh Tông đố. 

Các thánh Giáo phụ đã cho rằng “De Mariam nunquam satis” (nói về Đức Maria thì không bao giờ cùng). Quả thực con cái Mẹ trên khắp địa cầu muôn đời sẽ không đủ ngôn từ để có thể diễn tả cho hết được những đức tính cao vời khôn ví của Mẹ, mà qua đó Mẹ được hưởng những ân sủng đặc biệt Thiên Chúa đã dành cho Mẹ. Chỉ với đức tin mới có thể cảm nghiệm được Mẹ Maria đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể), là Mẹ Giáo Hội (mầu nhiệm phó thác dưới chân Thập giá, khi Đức Giê-su trao Thánh Gio-an cho Đức Mẹ, Người nói: “Thưa Bà, đây là con của Bà” – Ga 19, 26). Đức Mẹ còn là Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hoàn vũ, Nữ Vương mỗi gia đình Ki-tô Giáo. 

Còn Thánh cả Giu-se là Đấng Công Chính, là Đấng Bảo Trợ Giáo Hội, Bảo Trợ giới Lao động, Bảo Trợ các Gia đình Ki-tô Hữu. Giáo xứ Dũng Vy đã nhận Thánh Cả Giu-se làm Quan Thầy Bầu Cử thật vô cùng vinh dự. Thêm một đặc điểm là kể từ khi tòng giáo, toàn thể Giáo dân Dũng Vy đều lấy tên thánh là Maria (cho phụ nữ) và Giu-se (cho nam giới). Mãi cho tới sau thời điểm 1975, mới có một số trường hợp lấy tên thánh bổn mạng khác với truyền thống tốt đẹp đó, nhưng phần lớn vẫn giữ theo truyền thống. 

Đó là tất cả những lý do khiến tôi gửi đến quý vị một truyện ngắn (“ĐIỆU RU NGÚT NGÀN”); 2 ký sự (“BẮC HÀNH KÝ THUẬT” và “BẮC HÀNH TẠP KÝ”) về công tác giảng dạy khóa Chân Lý IX (Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam) tại Giáo phận Bắc Ninh và Gp Bùi Chu, Thái Bình (có về thăm Dũng Vy 3 năm liền 2006-2007-2008); cùng với những bài chia sẻ về Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Cả Giu-se Quan Thầy (xc. 2 file đính kèm). Và cũng để minh họa thêm cho tâm tình của tôi, tôi xin kể lại hai phép lạ trong rất nhiều phép lạ mà Đức Mẹ và Thánh Cả Giu-se đã ban cho Giáo xứ Dũng Vy: 

+ Phép lạ thứ nhất do Đức Mẹ ban: Như đã kể trong Kỷ Yếu Dũng Vy số 1, năm 1949 quân Pháp chiếm đóng Dũng Vy. Tới đầu năm 1952, thì rút lên đóng ở núi Phật Tích (cách Dũng Vy khoảng vài cây số về phía đông bắc). Khi rút, Đồn trưởng (sĩ quan Pháp) có chỉ thị cho ông Đinh Văn Loát (Trưởng ban Hương dũng) làm một cây đình liệu (cây cột bằng tre quấn rơm cao khoảng 10 mét) chôn ở cuối nhà thờ, tại khu đất nhà ông Câu, phía đông lô cốt quân sự (lô cốt xây ở gian giữa nhà quan cư), cách khoảng 7-8 mét. Khi có sự cố (bị địch tấn công), thì lấy dầu hôi (dầu hỏa) tưới vào cây đình liệu rồi đốt cháy, báo hiệu cho quân Pháp cứu viện. 

Ông Loát và đội Hương dũng mê tổ tôm, chắn cạ, có bao nhiêu dầu hôi dự trữ đem đốt đèn chơi bài hết. Tới 26 tháng chạp năm Tân Mão (22/01/1952 dl), VM tấn công, tìm dầu hỏa không có, không đốt được cây đình liệu báo động. Đội Hương dũng chỉ có khoảng 10 người do ông Loát chỉ huy, đành liều chết ra chống cự ở ngã ba đường làng (Cầu Giếng) phía đầu chợ Ve bên cạnh nhà ông Lý Súy và ông Thơ Thành. Ruộng rau cần nhà ông Đám Hà (đối diện nhà ô. Thơ Thành) bị cày nát vì trận chiến này. Cuối cùng thì cũng đẩy lui được VM. Sau Tết Nhâm Thìn (1952), anh Chẩm con bà Đám Tẹo (bà Đám Tẹo và ông Xếp là chị em đôi con dì ruột) kể lại như sau: 

Biết được quân Pháp rút khỏi làng Dũng Vy, VM quyết định tấn công tiến chiếm. Tối hôm đó (22/01/1952), họ chia quân làm hai mũi: Một mũi tập trung ở nhà ông Đám Hiện (nội công) sẽ đánh theo đường làng từ cổng Cầu Cung tiến vào chợ Ve. Vừa tới chợ “thì bị một đoàn quân Pháp đông ơi là đông phản công kịch liệt, súng bắn như mưa bão, anh em đành rút lui, ngã lên ngã xuống ở ruộng rau cần nhà ông Đám Hà” (nguyên văn lời kể của anh Chẩm). 

Mũi tiến công thứ hai từ Đồng Lạng tiến qua ngòi Cầu Ve (phía gần Bờ Cừ), đi thẳng lên Cầu Bạc, Đường Giồ, Lò Ngói, Cửa Ngõ. Khi tiến tới gần bờ tre làng (cách khoảng 100 mét) thì thấy một người đàn bà đội khăn trắng, mặc váy đầm (soirée) trắng thắt đai xanh. Bà đi lướt trên ngọn tre suốt dọc lũy tre làng, mỗi lần bà phất tay một cái thì có một luồng gió rất mạnh đẩy anh em ngã sấp mặt xuống ruộng. Nhiều lần như vậy, cứ lồm cồm bò dậy thì lại bị quật ngã bằng những luồng gió lạnh thấu xương từ tay bà phất ra. Sợ quá, đành rút êm, may là không ai bị thương hay chết. 

+ Phép lạ thứ hai do Thánh Cả Giu-se ban: Chuyện này cũng đã kể trong tập Kỷ Yếu Dũng Vy số 1. Xin xem nguyên văn trong bút ký “XỨ DŨNG, QUÊ TÔI” có đăng trên blog “Kỷ Yếu Dũng Vy” mục “Bài đã đăng 2013 – January”. Chuyện khá dài, xin tóm tắt lại: 

Vào cuối năm 1952, chú em Phan Tự Phiêu (con bà Phiêu, cô ruột của tôi) là Hương dũng (lính làng) đang gác ở cổng Cầu Ve, thì có một người khoảng trên 30 tuổi từ làng Đại Vy xuống, hỏi thăm “miếu thờ ông Thần to lớn, râu tóc bạc phơ, mặc áo nâu, tay trái bế em bé đẹp như Tây lai, tay phải cầm cành huệ” (nguyên văn lời nói của anh ta). Nhờ ông Xếp dẫn anh ta đến nhà thờ, nhìn lên tượng Thánh cả Giu-se thì anh ta quỳ gối, sấp mặt xuống và cứ thế đi bằng hai đầu gối lên tận Cung Thánh, miệng thì không ngớt kêu khấn: “Lạy Ngài mớ bái. Con lạy tạ ơn Ngài. Con đội ơn Ngài...”. Sau đó anh ta kể lại cho ông Xếp và tôi nghe câu chuyện hết sức cảm động: Anh ta bị dịch tả, khi hấp hối (sắp chết) thì thấy có âm binh vào bắt đi, bắt hết ở Đại Vy thì xuống Dũng Vy. Đến đầu cầu bắc qua ngòi Cầu Ve thì thấy ông Thần (như anh ta nói ở trên) đứng trên nóc cổng Cầu Ve quát: “Trả thằng này về nhà nó. Cút đi!”. Thế là anh ta khỏi bệnh và tìm xuống Dũng Vy để tạ ơn. 

Những nhân vật chính trong 2 truyện này đều là người ngoại đạo, chưa hề biết tới hình ảnh Thánh Cả Giu-se và Đức Mẹ Maria, vậy mà miêu tả rất rõ và đúng hệt. Điều này cho thấy phép lạ là có thật 100%. Tôi chỉ là người thuật lại câu chuyện, không hề thêm bớt một chi tiết nhỏ nào. 

Saigon, cuối Thu Quý Tỵ (9/2013)
Joseph Marie Lam Thy Đinh Văn Diệm
-----------

Ghi chú của Blog KYDV:

Bài viết trên đây của Joseph Marie Lam Thy Đinh Văn Diệm, quý đồng hương và bạn đọc cũng có thể xem tại Hình ảnh - Văn bản KYDV - Đinh Văn Diệm