Saturday, December 28, 2013

Du lịch: Hoa gốm đất Phù Lãng

Thứ sáu, 11/10/13, 05:05 GMT+7
 
Đến Phù Lãng chỉ mất hơn một tiếng đi xe, bạn vừa có thể tranh thủ một chuyến du lịch mà lại có cơ hội mua sắm những đồ gốm trang trí xinh xắn.
 
Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, nằm cách Hà Nội khoảng 60 km. Đường vào làng Phù Lãng lắt léo qua nhiều ngõ nhỏ. Có khi chưa kịp tìm quanh xem là đúng đến làng chưa thì bạn đã thấy hai bên đường bày đủ chum vại. 
 
Những gian nhà nhỏ xinh xắn với bờ rào bao quanh được làm bằng những chiếc tiểu quách xếp trồng lên nhau. Chum vại phơi sát hai bên bờ tường, trong các góc sân, trên dọc con đường rơm rạ chạy sát con sông, cũng là điểm dừng cuối cùng trong làng. Dọc hai bên bờ sông, người ta phơi rất nhiều đồ gốm mới cất mẻ. 
 
Đi sâu vào những ngõ nhỏ trong làng, nhiều lò gốm vẫn còn đang đỏ lửa. Nhà nào cũng có một khoảnh sân rộng rãi, đón nắng. Màu của đất, của rơm rạ, của dòng sông, của những bãi ngô còn xanh màu mới... phảng phất bóng dáng làng quê Việt yên bình.
 
02110803.jpg
Những sản phẩm của đất gốm Phù Lãng đã có mặt trên khắp cả nước. Ảnh: Vũ Long.
 
Sản phẩm gốm Phù Lãng khác hẳn với hai làng nghề Thổ Hà và Bát Tràng. Trong khi Bát Tràng nghiêng về các chất liệu men với những sản phẩm gia dụng thiết yếu như bát đĩa, bình hoa..., thì sản phẩm chính của làng Phù Lãng là chum vại, ấm đất chậu cảnh, tiểu sành cùng các sản phẩm từ gốm như tranh, lọ hoa, ấm chén, đồ trang trí, gốp tường, lư hương... rất được ưa thích

Nguyên liệu để tạo ra những sản phẩm của nghề gốm Phù Lãng là đất sét có màu hồng nhạt ở làng Thống Vát, Cung Kiệm (xã Việt Thống), sau khi mua, đất được trở về Phù Lãng bằng thuyền lớn. Qua nhiều công đoạn, đất sét được luyện dẻo mịn rồi tạo hình trên bàn xoay bằng tay của người thợ thủ công.

DSC-3370-JPG.jpg
Hoa văn duyên dáng. Ảnh: Vũ Long.
 
Giới nhiếp ảnh và các đôi bạn trẻ rất thích chụp ảnh tại ngôi làng này. Những góc nhỏ xinh xắn, những màu sắc chủ đạo nâu đỏ, vàng cam... của gốm và những nét vẽ từ bàn tay tài hoa của người người thợ làng gốm đã tạo nên những sản phẩm đặc trưng chỉ có ở Phù Lãng. Những chiếc bình hoa với nét trang trí thô mộc cuốn hút. Người ta không thể nhầm gốm Phù Lãng với sản phẩm của bất cứ làng nghề nào khác.

Đến với làng Phù Lãng, bạn còn có thể tự tay làm cho mình những chiếc bình xinh xắn tặng bạn bè và người thân. Giá cả các sản phẩm cũng rất bình dân, dao động từ 60.000 đồng trở lên cho các lọ hoa lớn. Với các lọ và bình hoa của Phù Lãng, bạn nên cắm với hoa chuối, hoa cúc, hoa sen và những loài hoa của đồng quê Việt.

02110805.jpg
Làng nghề truyền thống được giữ gìn và phát triển. Ảnh: Vũ Long.
 
Nếu chọn phương tiện đi lại là xe máy, từ Hà Nội, bạn đi qua cầu Chương Dương sang Gia Lâm, chạy đường Quốc lộ 5 để ra đường quốc lộ 1A mới. Từ đó đi thẳng đến Bắc Ninh, rẽ phải sang quốc lộ 18 - đường đi Quảng Ninh. Cách Phả Lại 6 km, bạn hỏi đường rẽ trái để vào làng. Quế Võ nằm sát với địa phận hai tỉnh Hải Dương và Bắc Ninh, nằm bên bờ dòng sông Cầu hiền hòa.
Lam Linh
 
Source VnExpress

Thursday, December 26, 2013

Văn hóa ẩm thực: Tao nhã thưởng thức trà cung đình



netviet chanel
Published on Jul 9, 2012

Di sản ca trù trên quê hương Quan họ - Lê Đại

Thứ ba, 05/02/2013 - 14:57
 
Sau 3 năm được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, di sản ca trù đã và đang được khôi phục, gìn giữ trên quê hương Quan họ. Tuy nhiên, các câu lạc bộ thành lập ra rồi hoạt động còn mờ nhạt và tự phát. Chế độ đãi ngộ với nghệ nhân, nghệ sỹ chưa có, chính sách hỗ trợ các câu lạc bộ ca trù còn ít… khiến cho những người tâm huyết với di sản ca trù không khỏi băn khoăn.
 
Âm vang ca phách   
Qua các tư liệu lịch sử thì trước đây không gian văn hóa ca trù Bắc Ninh phân bổ rộng khắp ở hầu hết các huyện, thị xã, thành phố với nhiều phường hát nổi tiếng gần xa. Không gian ca trù xưa phát triển nhưng hiện nay ca trù chỉ còn rải rác ở một số địa phương trong tỉnh.
Trong cái rét se sắt mùa đông, chúng tôi về thôn Thanh Tương (xã Thanh Khương, Thuận Thành) để được hòa mình vào không gian của ngôi làng ca trù nổi tiếng đất Bắc Ninh. Anh Nguyễn Duy Khoa, cán bộ văn hóa xã Thanh Khương kể rằng: Thanh Tương là đất ca trù nổi tiếng cả trăm năm nay. Xưa có thời cả làng đi hát, hát ở trong xã, trong huyện rồi sang cả Hà Nội, đâu đâu cũng biết tiếng. Dẫu có lúc phát triển, khi trầm lắng và thị hiếu thưởng thức nghệ thuật của người dân hiện nay cũng không thiết tha với ca trù như xưa nữa, đất diễn ngày càng thu hẹp, nhưng ở Thanh Tương lúc nào cũng còn những người nặng lòng với nghệ thuật ca trù mà đào nương Nguyễn Thị Thiệp là một trong số những người còn đau đáu truyền nghề. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp, nay đã ngoài 80 tuổi, mắt đã mờ, chân đã yếu so với cái thời xuân sắc đi khắp nơi biểu diễn ca trù nhưng trí tuệ thì vẫn tinh anh và giọng hát vẫn còn khỏe lắm. Cụ bảo rằng: “Ca trù thường gắn với đào nương, nhưng không phải ai học hát cũng thành người giỏi được. Để thành tài thì ngoài chất giọng tốt còn phải biết gõ phách, để khi tiếng phách vang lên người nghe cảm nhận đủ tiếng trầm tiếng bổng, tiếng cao, tiếng thấp… Đã truyền dạy cho biết bao người yêu thích ca trù nhưng đã được mấy người hát hay, gõ phách giỏi đâu”.
 
Tiết mục ca trù của câu lạc bộ Tiểu Than (Vạn Ninh) tham gia liên hoan văn nghệ quần chúng huyện Gia Bình năm 2009.       
Cũng như ở Thanh Tương, làng Tiểu Than (Vạn Ninh, Gia Bình) cũng có nghệ thuật ca trù từ rất sớm và phát triển mạnh mẽ qua nhiều đời, đã từng vào tận cung đình Huế để hát mừng thọ vua Tự Đức. Nơi đây hiện vẫn còn nhà thờ ông tổ ca trù và lưu giữ được 5 đạo sắc phong do các triều đại phong kiến phong tặng. Thế nhưng, trải bao thăng trầm lịch sử, ca trù Tiểu Than đứt quãng, mãi gần đây, những người có tâm huyết mới tìm cách khôi phục lại nghệ thuật quê hương. Dù đang gặp khó khăn về kinh phí hoạt động và thiếu nghệ nhân truyền dạy nhưng các thành viên trong câu lạc bộ ca trù Tiểu Than vẫn động viên nhau luyện tập và biểu diễn mỗi khi làng có hội hè, lễ tết. Điều đáng mừng ở câu lạc bộ ca trù Tiểu Than là có rất nhiều lứa tuổi tham gia, trong đó có cả thiếu niên. Hằng tuần vào tối thứ Bảy, Chủ nhật, câu lạc bộ duy trì sinh hoạt, nhịp phách vang đều nơi thôn dã, thúc giục nhiều người trong làng, ngoài xã đến thưởng thức.
Ông Nguyễn Thiết Sửu cùng các thành viên Ban Chủ nhiệm câu lạc bộ ca trù cho hay: Ca trù Tiểu Than xưa thường hát trong các lễ hội, đình đám với nhiều làn điệu nhưng hiện nay, do mới khôi phục nên các ca nương, trống chầu, kép đàn chỉ thành thạo được 5-7 làn điệu như: hát nói, hát gửi thư và hát thờ thánh. Hầu hết thành viên trong câu lạc bộ đều chung mong ước là làm sao để tiếp tục đón được nghệ nhân về truyền dạy thêm nhiều giọng điệu mới…
Trên quê hương Quan họ, ca trù vẫn đang sống và được những người tâm huyết, yêu thích gìn giữ, truyền nghề. Cho dù hôm nay, các ca nương, tay trống, tay đàn ở Bắc Ninh gặp không ít khó khăn nhưng vẫn hoạt động đều đặn, bồi đắp tình yêu đối với di sản cho biết bao người.
Bảo vệ ca trù cho xứng tầm di sản
Khác với di sản văn hóa Quan họ đã và đang được quan tâm, đầu tư với chuỗi chương trình hoạt động bảo tồn và phát huy khá chi tiết, thiết thực và bước đầu đạt hiệu quả thì suốt 3 năm qua, việc bảo tồn ca trù ở Bắc Ninh gần như còn bỏ ngỏ.
Đắm đuối và nâng niu, trân trọng di sản của ông cha để lại là thế nhưng trong câu chuyện cùng chúng tôi, những người tâm huyết với ca trù Thanh Tương hay Tiểu Than vẫn không khỏi băn khoăn rằng, sau 3 năm được UNESCO công nhận là di sản thế giới nhưng sự quan tâm, các chương trình hành động để gìn giữ bảo vệ ca trù dường như vẫn như chưa được khởi động. Chính sách đãi ngộ nghệ nhân ca trù cũng chẳng có nhiều. Ngay như Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp là một trong số rất ít người còn hiểu sâu, biết rộng về ca trù của cả nước nhưng ngoài danh hiệu Nghệ nhân dân gian do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cấp Bằng công nhận thì vẫn chưa nhận được sự quan tâm nhiều lắm của các cấp, các ngành.
Ca trù là di sản cần bảo vệ khẩn cấp nhưng lại được bảo tồn, phát huy giá trị một cách từ từ. Phải chăng vì ca trù là di sản liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước nên công tác bảo tồn, phát huy là việc làm không của riêng ai? Bảo vệ ca trù sao cho xứng tầm di sản, để không bị UNESCO rút danh hiệu di sản thế giới đang là bài toán đặt ra đối với các ngành, các cấp và toàn xã hội.
Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Xuân Trung, Trưởng phòng Nghiệp vụ văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho rằng: “Phải thành thật nói rằng, tuy là di sản cần được bảo vệ khẩn cấp nhưng thời gian qua, ca trù vẫn chưa được quan tâm, bảo vệ một cách đúng mức. Với Bắc Ninh, việc bảo tồn mới đang tiến hành kiểm kê, đánh giá thực trạng các câu lạc bộ và cử tham dự liên hoan ca trù toàn quốc… Việc truyền dạy cũng chỉ do các nghệ nhân, các câu lạc bộ tự tổ chức. Trong thời gian tới, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tham mưu cho tỉnh đẩy mạnh việc bảo tồn di sản ca trù. Trong đó dự kiến sẽ lập Dự án bảo tồn dân ca Quan họ Bắc Ninh và ca trù giai đoạn 2. Nếu dự án này được phê duyệt sẽ có các điểm nhấn như hỗ trợ kinh phí cho các câu lạc bộ; đề nghị tỉnh phong tặng danh hiệu nghệ nhân ca trù; đẩy mạnh các hoạt động tập huấn; tuyên truyền, quảng bá và tổ chức các liên hoan ca trù cấp tỉnh. Ngoài ra phối hợp để xuất bản sách, tài liệu, tích cực tuyên truyền sâu rộng về di sản ca trù…”. Thời gian chẳng chờ đợi ai, các nghệ nhân thì nay tuổi đều đã cao, những đào, kép trẻ học chưa thạo tay phách đã vội bỏ nghề, thế nên, mong sao những chương trình hành động thiết thực với ca trù này sớm được triển khai thực hiện.
Ca trù trên quê hương Quan họ hiện đang được những người tâm huyết, yêu thích gìn giữ, bảo tồn. Song, cũng phải thẳng thắn rằng để bảo tồn di sản mà như vậy thôi là chưa đủ. Vẫn biết, ca trù là di sản liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố nhưng với tính cấp thiết cần được bảo vệ khẩn cấp thì mỗi địa phương nên có những chính sách đặc biệt, cụ thể mới mong tiếng đàn, nhịp phách, lời ca vang đều hôm nay và mai sau. 
Lê Đại
 

Monday, December 23, 2013

Du lịch: Dấu tích xưa qua những kinh đô Việt cổ

Chủ nhật, 17/11/13, 03:06 GMT+7
Trong hành trình xuyên bao thế kỷ, bạn có thể tìm hiểu lịch sử, văn hóa giữa các vùng miền, trải nghiệm nhiều không gian của đất nước.
1. Đền Hùng, Phú Thọ
Khu di tích Đền Hùng thuộc xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, là nơi thờ cúng các vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng, có độ cao175 mét so với mặt nước biển, thuộc đất Phong Châu, vốn là đất kế đô của Nhà nước Văn Lang 4.000 năm trước đây. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo tạo thành ba đỉnh “Tam sơn cấm địa”.
Toàn bộ khu di tích có 4 đền, một chùa và một lăng hài hoà trong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ hội tụ.
denhung1.jpg
Di tích đền Hùng. Ảnh: vietsense
Đền Thượng và lăng Hùng Vương trên đỉnh núi: tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân.
Đền Trung: nơi này trên 2.300 năm trước dựng quán nghỉ ngơi ngắm cảnh của vua Hùng, đôi khi họp bàn việc nước cơ mật với Lạc hầu, Lạc tướng. Tương truyền còn là nơi hoàng tử Lang Liêu dâng bánh dày, bánh chưng. Sau thời Hùng Vương nhân dân lập miếu thờ các vua Hùng "Hùng Vương tổ miếu".
Đền Hạ và chùa: theo truyền thuyết, bãi bằng lưng chừng núi này là nơi tổ mẫu Âu Cơ chuyển dạ sinh ra bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Dấu tích giếng “Mắt Rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền.
Đền Giếng: tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời.
2. Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội có tổng diện tích 18,395 ha, bao gồm khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và các di tích còn sót lại trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, điện Kính Thiên, nhà D67, Hậu Lâu, Bắc Môn, tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn.
hoangthanh2-6796-1379562694.jpg
Dấu tích hoàng thành Thăng Long. Ảnh: yatlat
Theo lịch sử, năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lý. Tháng 7 mùa thu năm 1010, nhà vua công bố thiên đô chiếu để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về thành Đại La. Ngay sau khi dời đô, Lý Công Uẩn đã cho gấp rút xây dựng Kinh thành Thăng Long, đến đầu năm 1011 thì hoàn thành.
Khi mới xây dựng, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách gồm: vòng ngoài cùng gọi là La thành hay Kinh thành, bao quanh toàn bộ kinh đô và men theo nước của 3 con sông: sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Kinh thành là nơi ở và sinh sống của dân cư. Vòng thành thứ hai (ở giữa) là Hoàng thành, là khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều. Thành nhỏ nhất ở trong cùng là Tử Cấm thành, nơi chỉ dành cho vua, hoàng hậu và số ít cung tần mỹ nữ.
3. Cố đô Hoa Lư, Ninh Bình
Hoa Lư là kinh đô của nước Đại Cồ Việt dưới hai triều Đinh (968-979) và Tiền Lê (980-1009). Đó là vùng núi hiểm trở, thích hợp với yêu cầu quân sự của một chính quyền độc lập non trẻ còn phải đối phó với nhiều mối đe dọa của thù trong, giặc ngoài.
Với địa thế lợi hại của vùng đất núi non trùng điệp, triều Đinh đã đánh bại các thế lực cát cứ địa phương, khôi phục và củng cố nền thống nhất quốc gia; triều Tiền Lê đã đập tan cuộc xâm lược lần thứ nhất của nhà Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Trong vòng 41 năm (968-1009), kinh đô Hoa Lư đã xứng đáng với sự lựa chọn của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và đã làm tròn vai trò lịch sử của nó.
4. Thành nhà Hồ, Thanh Hóa
Là kinh đô của nước Đại Ngu, khu thành nhà Hồ thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa được xây dựng cách đây hơn 6 thế kỷ và hiện nay chỉ còn sót lại phần tòa thành.
nhaho1.jpg
Tòa thành nhà Hồ độc đáo với mái vòm. Ảnh: dulichvietnam
Thành nhà Hồ tọa lạc ở vị trí giáp ranh đồng bằng và miền núi, cảnh quan đẹp, sông núi hài hòa, địa hình đa dạng tạo lợi thế về quân sự. Theo sử liệu, vào năm 1397, trước nguy cơ đất nước bị giặc Minh từ phương Bắc xâm lăng, Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, đồng thời cũng là cách để hướng lòng dân đoạn tuyệt với nhà Trần. Thế đất được chọn nằm ở khu vực giữa sông Mã và sông Bưởi, phía bắc có núi Thổ Tượng, phía tây có núi Ngưu Ngọa, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía nam là nơi hội tụ của sông Mã và sông Bưởi.
Thành nhà Hồ gồm ba bộ phận: La thành, Hào thành và Hoàng thành. La thành là vòng ngoài cùng, chu vi khoảng 4 km. Hào thành được đào bao quanh bốn phía ngoài nội thành, cách chân thành theo các hướng khoảng 50m. Công trình này có nhiệm vụ bảo vệ nội thành.
5. Cố đô Huế
Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất dưới sự trị vì của 13 đời vua nhà Nguyễn, từ năm1802 đến năm 1945. Cũng vào thời gian này, tại đây đã hình thành các công trình kiến trúc lịch sử văn hoá có giá trị mà tiêu biểu là kinh thành Huế, đặc biệt là khu Đại Nội (có 253 công trình), 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua Nguyễn, đàn Nam Giao, Hổ Quyền, điện Hòn Chén.
codohue.jpg
Cố đô Huế. Ảnh: dulichchuyenghiep
Bên bờ Bắc của con sông Hương, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền Nguyễn là ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc.
6. Thành Hoàng Đế, Bình Định
Thành Hoàng Đế cách thành phố Quy Nhơn khoảng 30 km về phía Bắc, thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 1778, tướng quân Nguyễn Huệ đem quân vào Nam đánh tan quân Xiêm, làm nên chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút vang dội, từ đó mới chính thức có gọi tên là thành Hoàng Đế.
Trong suốt một thời gian dài từ 1776 đến 1793, thành là đại bản doanh của quân Tây Sơn và sau đó là kinh đô của chính quyền Trung ương Hoàng Đế Thái Đức – Nguyễn Nhạc.
Thành Hoàng Đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật, gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm Thành. Sau khi triều đại Tây Sơn thất bại, Gia Long - Nguyễn Ánh đã trả thù cực kỳ dã man đối với triều đại Tây Sơn. Thành Hoàng Đế, dấu tích một thời vàng son của Tây Sơn cũng bị đổ nát.
Anh Phương tổng hợp
Source VnExpress