Tuesday, November 5, 2013

Lễ hội làng đúc đồng Đại Bái - Bắc Ninh



Trần Phạm Quang Phúc
Uploaded on Jul 30, 2011
 

Đôi Bờ Ngũ Huyện Khê (Hà Bắc) - Trần Quốc Vượng

 Bắc Ninh cũ, xứ Kinh Bắc xưa, là cả một kho tàng di tích khảo cổ, di tích lịch sử, huyền tích, huyền thoại, thần thoại tố, những hội hè xuân - thu, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ thức cổ truyền, những câu nói văn vẻ, những lời ca, điệu hát, những tên đất, tên làng cổ kính… hứa hẹn những vụ gặt bội thu của nhiều ngành nghiên cứu đất nước, con người, xã hội Việt Nam nói chung, xứ Bắc nói riêng, mà gần 2 tháng công tác ở Yên Phong, Tiêu Sơn, Quế Võ, 2 đoàn khảo cổ học và dân tộc học Khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, với sự giúp đỡ và phối hợp đầy tình thân ái của Ty Văn hóa Hà Bắc cùng một số cán bộ Tổ Văn học dân gian Viện Văn học, đã khơi ra ngồn ngộn vấn đề…
Trong thông báo ngắn này, chúng tôi không thể nói hết những gì chúng tôi - cán bộ, sinh viên của mấy cơ quan nói trên, cùng làm, cùng theo dõi, cùng phát hiện theo cùng một phương pháp liên ngành. Hãy đợi dịp khác, hãy hẹn nhau ở Hội nghị học thuật sắp tới do Hà Bắc chủ trì.
Ở đây chúng tôi chỉ có thể nói về một tuyến đường, một lộ trình khoa học mà anh em Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội cùng anh em Ty Văn hóa Hà Bắc sẽ còn trở đi trở lại trong năm tới và mấy năm sau này nữa: Hành trình đi sâu vào quá khứ xứ Bắc dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê.
Nước non xứ Bắc có sức hấp dẫn lạ lùng! Miền Thiên Thai ấy, quê hương ông Trạng khai khoa đất Việt Lê Văn Thịnh - Trạng Cú theo tên gọi dân gian - đất đai bộ Vũ Ninh thời cổ, Gia Lương ngày nay, là cả một bí mật mới bắt đầu khám phá. Một khu di chỉ Lãng Ngâm chắc chắn thuộc văn hóa Đông Sơn, với một khu mộ địa đầy ắp đồ đồng ở chân núi Cả thuộc dãy núi Đông Cứu, đan xen đầy mộ gạch cổ Đông Hán - Lục Triều, khoét sâu vào lòng núi, một khu cư trú Vườn Chiều trải rộng hàng vạn mét vuông trong dải đất phù sa trên bãi trong đê sông Đuống ken dày đặc "gốm Đường Cồ", "Gò Mun muộn" và kha khá gốm lạ, có thể là Chiến Quốc… Gần đó, cũng trong phạm vi Gia Lương, là khu mộ hình thuyền. Bên cạnh thành của Chiêu Nương, một nữ tướng của hai Bà Trưng mới phát hiện, còn hứa hẹn lắm điều hay. Quanh núi, trong đồng là rất nhiều đền đài nam nữ tướng trong phong trào hai Bà Trưng với địa danh Lãng Ngâm, Phá Lãng, Phù Lãng, Tân Lãng, Lãng Khê, Lãng Sơn, Vân Lãng… khiến Lê Quý Đôn ngày trước ngờ ngợ rằng đó là vùng Lãng Bạc của buổi đầu Công Nguyên.
Có một thành Dền và một làng Dền tại Quế Võ bên đường 18, nơi ấy nhiều "mộ Hán"; có thành Dền ở kề Đông Cứu (Gia Lương); có một thành Dềnbến Dền ở Thụ Tiền, xã Cảnh Hưng, bờ sông Đuống, từ núi Phật Tích (Tiên Sơn) nhìn ra, có một làng Dền ở bờ sông Thương, có 1 làng Diềm (Viêm Xá) ở cạnh Quả Cảm sát thị xã Bắc Giang; Lũng Triều và thành Luy Lâu ở Thuận Thành… Và Trung Màu (Tiên Du cũ) nay thuộc Gia Lâm cũng có thành Dền, gần đó có làng Viềng (Tiên Viềng) của Từ Sơn. Cộng với thành Dền ở Yên Lãng cả Gò Chiền ở Lâm Thao (Vĩnh Phúc), Gò Chiền Vậy ở Hoài Đức, Thành Dền ở Quốc Oai, di chỉ Gò Đồng Dền Hoa Lư (Ninh Bình), cầu Dền Thăng Long cổ (Hà Nội)… Những địa danh ấy nói gì?
Toàn những nơi trồng rau dền theo lối minh giải của từ nguyên học dân gian? Hay Dền, Chiền, Triều, Viềng… đều là "đồng âm dị dịch" của một từ gốc Tày - Thái cổ, như Chiềng của Mường - Thái ngay gần đây, là khu vực trung tâm, nơi ở của thủ lĩnh Việt, của lang cun Mường, hay phìa tạo Thái, có một công trình phòng vệ, một cái thành nào đó…? Nhà khảo cổ học lưu ý rằng: nơi nào mang địa danh ấy là một di tích khảo cổ quan trọng: một di chỉ đồ đồng - sắt lớn, một cái thành cổ…
Nhưng ta hãy trở lại với Tiên Viềng! Qua thị trấn Từ Sơn 2km thì đến Viềng (Vĩnh Kiều), nằm chạy dài, thẳng gốc với quốc lộ 1 như là một dải lũy thành. Rẽ bên trái ta đi dọc theo bờ sông Tiêu Tương cũ của câu truyện Trương Chi, nay chỉ còn là những dải ao hồ hay những dọc ruộng sâu.
Trên cánh đồng Bãi Tự và cánh đồng Cửa Phủ là khu Lò Gạch. Ở đó, chúng tôi tìm thấy một di tích khảo cổ quan trọng. Tầng văn hóa xuất lộ, ken dày đặc vô vàn là mảnh tước, quy mô khác nhau, to, nhỏ, vừa, tí xíu như vảy cá rô don. Những mảnh đá có dấu ép dấu cưa, những mảnh vòng, mảnh rìu phế phẩm. Đã thấy được ít nhất 3 loại đá, kết cấu hạt đều rất mịn, màu trắng xám (quắc zít), đỏ (như mã não) và vàng.
Chắc chắn là một công xưởng chế tác đồ đá quan trọng của vùng đồng bằng xứ Bắc. Đá và kỹ thuật chế tác gợi nhiều đến Tràng Kênh. Gốm, có ít, đều là gốm thô, hoa văn giống Phùng Nguyên. Năm tới đây Tổ khảo cổ học Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội sẽ xin phép khai quật đợt 1 công xưởng này. Kết quả chắc là lý thú.
Đó là xã Trương Giang, cách Hà Nội 20km, với 5 làng Tiêu: Tiêu Thượng, Tiêu Long, Tiêu Rút, Tiêu Sơn và Tiêu Tề - nằm rải dưới chân Tiêu Sơn và bên bờ Tiêu Tương. Tòa cổ sái trên núi đã tiêu điều, không còn gì là cổ kính, Một tấm bia duy nhất ghi việc cúng ruộng cho chùa thời Bảo Đại, chùa Tràng Liêu (chùa Lào) thời Lý dưới chân núi. Trong làng Tiêu Thượng, nơi tu hành của sư Vạn Hạnh thời Lý, nơi mẹ Lý Công Uẩn hoài thai, chỉ còn lại cái nền.
Trước cửa chùa Tiêu Sơn, phía chân núi, phát hiện một di chỉ kiểu Đường Cồ, tầng văn hóa mỏng, gốm ít. Cũng ở Tiêu Sơn, còn di tích một tòa thành, lũy đất đắp còn lại từng đoạn, lấy Tiêu Tương làm hào. Ở đó có mộ Hán, có gốm văn in, sứ Lý. Có "Bãi Luyện Quân", "Cửa Phủ", "Cửa Đông", nhiều gò cao mang tên Mả Thiu, Mả Viềng, và Mả Mái - mả Lý A Nương, mẹ Lý Súy, chủ nhân của thành theo thần phả, một vị tướng thời Lý, có tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa Thân Lợi năm 1140…
Quả Cảm - Kẻ Cởm của dân gian - trên cửa Ngũ Huyện Khê đổ ra sông Cầu. Một khu di chỉ và mộ táng lớn kiểu Đường Cồ đã được Viện Khảo cổ học và Ty Văn hóa Hà Bắc đào thăm dò. Di chỉ thường xuyên bị phá hoại nghiêm trọng để làm đường.
Rìa đồi Quả Cảm, rất nhiều mộ Hán cổ, quy mô khá lớn. Và rất nhiều gốm cổ Thổ Hà: theo lời truyền miệng của nhân dân, trước khi chuyển lò và làng sang đất Thổ Hà ngày nay, những người thợ gốm cổ đầu tiên đã định cư tại vùng đồi Quả Cảm.
Bờ bên phải Ngũ Huyện Khê, cạnh đồi Quả Cảm là thôn Lẫm (xã Vạn An), thôn của bà chúa Lẫm, theo lời truyền miệng của nhân dân, lấy vua Lý, để kho ở đó và cắt nhiều tù binh Chàm giữ kho (lẫm). Phải chăng đó là Lẫm Cảng được ghi trong Đại Việt sử lược? Khu vực này xưa thuộc huyện Võ Giàng. Tại thôn Lẫm, có rất nhiều nhà họ Tống - họ lớn, và cho đến nay, cha truyền con nối, vẫn tự nhận là gốc từ Chiêm Thành như ghi chép của An Nam chí lược? Nhạc Chàm có ảnh hưởng gì đến dân ca Quan họ? Dọc đôi bờ Ngũ Huyện Khê, có thể kể ít nhất cũng 7 làng có truyền thống quan họ.
Cũng trên cửa sông Ngũ Huyện, cạnh Quả Cảm là làng Diềm (Viêm Xá), một làng quan họ, có đền vua Bà, nơi diễn ra các tối quan họ và chơi vật cầu để cầu mưa. Đền có trụ đá thề. Ở trung lưu Ngũ Huyện Khê, đến Mỵ Châu cũng thờ đá - tượng. Cho đến gần đây, tục thờ "ông Đống", "ông Lúi" - những đống đá, gạch ngày càng chất cao và đốt hương bởi người qua lại - còn khá đậm nét.
Phải chăng đất Việt cổ khi trước có tục thờ đá? Và cũng có một dư ba nào đó của nền văn hóa, văn minh cự thạch? Hình như ngày càng có nhiều minh chứng cho giả thuyết đó. Bờ bên phải Ngũ Huyện Khê, giữa Ngũ Huyện Khê và sông Cầu là di chỉ Nội Gầm, với đồ gốm và đồ đồng Gò Mun muộn và Đường Cồ. Ngay bờ bên phải sông Ngũ Huyện, trên đất Chi Long, chúng tôi phát hiện một di chỉ khảo cổ, di chỉ Chi Long, kiểu Đường Cồ, không có gò mà ở ngay trong làng, làng nhỏ, 2 xóm, với 12 mẫu vườn, nằm giữa vùng đồng bằng chiêm trũng Yên Phong.
Ở đó cũng có di tích tòa thành cổ, đã bị san bằng gần hết, có mộ Hán và gốm văn in, và 2 rìu đá mài nhỏ, đẹp. Đê Chằng Cày mới đắp thời Lê Vĩnh Tộ (thế kỷ thứ 17), và 4 huyện hạ lưu Ngũ Huyện từ đó mới được mùa luôn.
Cùng với di chỉ Đường Cồ của Phú Xuyên giáp vùng ô trũng Hà Nam - Ninh Bình, di chỉ Nội Gầm và Chi Long chứng minh rằng vùng đồng chiêm trũng lưu vực sông Hồng đã được khai phá từ cuối thời đại đồng đầu thời đại sắt, hơn 2000 năm có lẻ.
Và cuối cùng, nổi lên một sự thật, có thể coi là một kinh nghiệm, công tác điền dã khảo cổ học Việt Nam: ở bất cứ nơi nào có di chỉ đồng thau - sắt sớm Việt Nam, chúng tôi cũng thấy có mộ Hán cổ hay di chỉ thời Hán cổ. Và ngược lại.
Phải chăng, đều đó phản ánh 1 sự thật lịch sử, cũng đã được khảo nghiệm ở vùng Điền Trì (Vân Nam): các trung tâm trấn lị, đô hộ của nhà Hán đều nhờ cắm vào vùng kinh tế đã phát đạt của người bản địa Việt cổ, vùng cư dân đã tập trung đông đúc?
Kết thúc bản thông báo ngắn này, là một thú nhận chưa thành công. Điều tra khảo cổ đôi bờ Ngũ Huyện Khê, chúng tôi có ý định dò tìm dấu vết xưa của thành cổ Long Biên, theo Thủy kinh chú và các thư tịch khác là thuộc vùng này. Nhưng chúng tôi chưa tìm thấy. Và do đó, chúng tôi còn tiếp tục thăm tìm trong năm tới…
          Nguồn: Tạp chí Khảo cổ học, số 16/1974, tr.90-92

Bốn xứ Đông - Đoài - Nam - Bắc của đại vùng văn hóa đồng bằng Bắc bộ - Lê Văn Hảo

......

Vùng văn hóa xứ Bắc, nơi hội tụ hài hòa của vua chúa, tôn giáo và văn nghệ dân gian

Xứ Bắc, vùng đất của trấn Kinh Bắc xưa, của hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang nay, là một vùng văn hóa nổi tiếng của tổ quốc, nơi ghi dấu Kinh Dương Vương (lăng mộ còn tại A Lữ, Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), Lạc Long Quân (đền thờ còn tại Bình Ngô, An Binh, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), và Âu Cơ (miếu thờ còn tại A Lữ); cũng là nơi phát tích của triều Lý (thôn Cổ Pháp, huyện Từ Sơn): "thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp".

Xứ Bắc có Luy Lâu, là một trung tâm Phật giáo Việt Nam quan trọng ở miền Đông Á vào đầu công nguyên thời Bắc thuộc, tương đương với hai trung tâm lớn của Phật giáo Trung Hoa cùng thời là Lạc Dương và Bình Thành.

Xứ Bắc là nơi còn lưu giữ những ngôi chùa, ngôi đình có giá trị lịch sử và nghệ thuật quan trọng nhất của Việt Nam: chùa Dâu, Long Hàm, Lục Tổ, Phật Tích, Đức La, Tam Sơn, Vĩnh Nghiêm... ; đình Lỗ Hạnh, Thổ Hà, Phù Lưu, Phù Lão, Đình Diềm, Đình Bảng...

Xứ Bắc có nhiều làng nghề nổi tiếng: Dệt tơ lụa và nhuộm (Đình Bảng), gốm, sành, sứ (Thổ Hà và Bát Tràng), đồ thêu (thị xã Bắc Ninh) cùng những đặc sản: giò chả Từ Sơn, cam Bố Hạ, cát sâm Yên Thế...

Xứ Bắc cũng là nơi đã sáng tạo ra những đỉnh cao của văn nghệ dân gian: Truyền thống ăn ngon, mặc đẹp "ăn Bắc, mặc Kinh", tranh Đông Hồ, hát Quan Họ, hội Lim... cũng là nơi nổi tiếng về truyền thống thượng võ và hiếu học. Đây là quê hương của người anh hùng làng Dóng:

"Trừ giặc còn hiềm ba tuổi đời là muộn
Cưỡi mây vẫn giận chín tầng trời chửa cao"
(Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng vân do hận cửu thiên đê)
Cao Bá Quát

Xứ Bắc cũng là xứ sở của rất nhiều ông nghè, ông cống, tiến sĩ, trạng nguyên: "Một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè ông trạng" hay "một bồ tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn"...

Nói đến vùng văn hóa xứ Bắc phải nhắc đến hai đỉnh cao của nó: hát Quan Họ và hội Lim.

Xuất xứ Kinh Bắc, có lẽ hát Quan Họ đã xuất hiện từ thời Lý thế kỷ 11 và những nghệ nhân dân gian già trẻ của 49 làng quan họ Bắc Ninh xưa nay làm chúng ta kinh ngạc và thán phục vì những canh hát thâu đêm của họ trong hội làng, trước cửa chùa, trên sườn đồi, trên mặt hồ.

Liền anh quan họ mang ô lục soạn, quấn khăn nhiễu tam giang, áo lương, quần trắng; liền chị quan họ có nón quai thao, khăn mỏ quạ, áo mớ ba, khuyên vàng, xà tích. Trong canh hát thâu đêm suốt sáng, gái trai quan họ mời chào nhau, tâm tình với nhau bằng lời thơ tiếng hát. Họ hát đôi (đôi nữ, đôi nam) và hát đối (đối lời, đối giọng). Những đội hát gồm nhiều cặp quan họ gái và trai được đào tạo theo kiểu truyền nghề từ thế hệ già đến thế hệ trẻ. Khi "thành đôi" rồi ít khi "xé cặp". Hát đôi được phân công người hát chính và người hát luồn. Quan họ có tới hai trăm làn điệu khác nhau (Trần Linh Quý và Hồng Thao, Tìm hiểu dân ca quan họ, Hà Nội, 1997).

Hát đối quan họ còn gọi là " nam tòng nữ", là trò chơi ca nhạc cao siêu, nhất là khi thi hát. Hát quan họ luôn luôn đối giọng và đối lời. Liền chị hát bài "Mười thương" thì liền anh trả lời bằng bài "Mười nhớ", nhưng phải đúng giai điệu đó.

Làn điệu quan họ đặc sắc nhất có lẽ là bài "Giã bạn":

Người ơi, người ở đừng về
Người về em những khóc thầm
Bên song vạt áo ướt đầm như mưa
Người về em đứng trông theo
Trông nước nước chảy trông bèo bèo trôi
Người về em dặn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai
Người về em dặn lời rằng
Đâu hơn người lấy đâu bằng đợi em...

Đỉnh cao của nghệ thuật và văn hóa quan họ là hội Lim, diễn ra tại xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, ngày và suốt đêm 13 tháng Giêng.

Hát ngoài đồi: Trong ngày hội Lim các liền anh liền chị đi chơi thành từng nhóm nhỏ, bên nam chưa có bạn thì tìm bên nữ mời họ xơi trầu, nếu nữ thuận nhận trầu tức là nhận lời hát cùng với nam; cũng có khi nữ chủ động mời nam xơi trầu trước. Trong khi hát với nhau, nếu thấy ăn ý về giọng hát và cách đối xử thì hẹn nhau đến một ngày nào đó gặp lại xin kết nghĩa (kết bạn quan họ) với nhau cho đến trọn đời.

Hát trong nhà:  Quan họ khách được hẹn mời từ trước, buổi sáng đến thẳng hội. Quan họ bạn đến cổng làng Lim là hát mừng làng đầu năm mới, mừng nhà, mừng bạn. Quan họ chủ đứng ở sân hát đón khách và hát chúc mừng lại, đưa khách vào nhà, cất nón, cất ô rồi ngồi xuống giường ở hai gian bên cạnh, hoặc hai bên tràng kỷ đối diện nhau mà hát. Không nói bằng lời, tất cả diễn ra hoàn toàn bằng lời thơ, tiếng hát.

Hát trên thuyền: Gái trai bơi thuyền trên ao hồ hay trên sông Làng Bịu (bên cạnh làng Lim) mà hát đối đáp.

Hội Lim là hội giao duyên thi tài của gái lịch trai thanh. Điều thú vị là theo phong tục sở tại, gái trai quan họ đã kết nghĩa với nhau thì không lấy nhau, nhưng gái có chồng và trai có vợ vẫn có thể kết nghĩa và hát với nhau trọn đời, không hề có chuyện ghen tuông, mặc dầu những bài hát quan họ chứa đầy chất thơ lãng mạn của tâm hồn. Họ như là những diễn viên trên một sân khấu tình yêu lý tưởng, hát xong ai về nhà nấy để mà thương mà nhớ. Thực là một phong tục văn nghệ, một văn hóa tình cảm ít thấy trên quả đất này.

(Sưu tầm)

Nguồn: Diễn Đàn Kiến Thức

Friday, November 1, 2013

Đồng hương tâm sự: Đinh Văn Thắng, Đinh Tất Thăng, Đinh Tất Thức

From: Tony Thang Dinh (todi_1999@yahoo.com)
Sent: Fri 11/01/13 6:20 AM
To:  Thuc Dinh (dthuc@live.com

Hi Thức;

Đinh Tất Thăng đã hồi âm thư cho Thắng eventually. I'll call him later.

BR/Tony Thắng
------------

----- Forwarded Message -----
From: Tat Thang
To: Tony Thang Dinh  
Sent: Friday, November 1, 2013 12:20 AM
Subject: Về: JM Lam Thy & Thang Email

Chào Anh.

Em xin lỗi, hôm nay mới coi email. Em cũng có đọc email của anh Thức liên lạc với gia tộc nhà mình và em vẫn luôn nhớ mọi người, không quên ai hết. 

Còn Band Gipsy Flamenco Đinh Hùng cũng do em thành lập thời kỳ đầu, sau đó tách ra, nên style ăn mặc cũng giống như Band mới của em. 

Em rất vui khi nhận được liên lạc với Đại gia đình họ Đinh của mình. Tuy xa nhưng vẫn gần. Em tạm dừng, cho em gởi lời thăm tất cả họ hàng bên đó nhé. Cầu xin CHÚA ơn bình an, sức khỏe cho mọi người.

See u again haha...

My cell phone 0908223401
Ban nhạc Gipsy Fire

Gipsy Fire Novamenco at Majestic Hotel 4-2013 (Clip 8)


Thức Đinh
Published on Apr 9, 2013
----------

Vào ngày 5:38 Thứ Bảy, 7 tháng 9 2013,
Tony Thang Dinh ...<...todi_1999@yahoo.com...>... đã viết:
 
Hello Thăng;

Đây là anh Thắng con Bác Đột và Yêm ở Ngã Ba Ông Tạ, Giáo Xứ An Lạc, Thăng còn nhớ chứ?

Anh em lâu ngày không gặp, nhưng anh vẫn hy vọng là Thăng đã không cho anh vào lãng quên. Thức đã cho website của ban nhạc Gipsy Fire Novamenco. Thấy chú Thăng có phần già đi rất nhiều so với 20 năm trước. Đúng là hơn 20 năm rồi anh chưa gặp lại vợ chồng Thăng.

Nhưng anh vẫn biết có một chú em đang chơi nhạc ở Sài Gòn. Anh thấy ban nhạc của Thăng nhìn rất chuyên nghiệp và cách ăn diện rất ăn mắt, nói chung lá rất "Ấn Tượng". Anh có nghe một số bài hòa tấu của ban nhạc Thăng trên trang blog của Thức. Quả thật như anh dự đoán, tụi Thăng chơi rất hay, ai đánh Guitar quá sung. Hòa âm cũng rất sạch sẽ và sang trọng. Anh rất muốn có ngày gặp lại Thăng và xin tháp tùng với Thăng một đêm để được mắt thấy tài nghệ ban nhạc của Thăng. Anh đã nghỉ chơi nhạc từ năm 1992, bà xã không cho phép anh lên sân khấu từ khi lập gia đình (1993). 

Anh có về Sài Gòn hồi năm 2007 (lúc Bố anh chết), anh có gặp Mẹ em trong lúc đưa tang, anh về có 10 ngày, cho nên không liên lạc với Thăng được. Nhưng lần tới, anh sẽ nhất định tìm Thăng, nếu không nghe Thăng chơi thì cũng "chén em chén chị" vài chai bia với Thăng nhé. Thăng vẫn không thay đổi, chỉ có là tóc bạc bắt đầu ra đời theo năm tháng. Vẫn còn nụ cười của ngày nào. Còn đẹp trai lắm, và nhìn vóc dáng rất còn sung.

Anh tìm thấy một ban nhạc Gipsy Fire Flamenco trong YouTube nữa, tụi này là ai vậy? Cũng có tên mang họ Đinh như tụi mình, anh trưởng nhóm là Đinh Hùng, và tụi này có vẻ chịu quảng cáo hơn, Thăng có biết ban nhạc này không? Nhìn hình thì thấy cách ăn diện cũng giống như ban nhạc của Thăng. Bà con có thể lầm lẫn. Nếu như vậy trong Sài Gòn mình bây giờ có hai ban nhạc cùng tên Gipsy Fire. Tụi Thăng đóng đô được ở Majestic Hotel là qúa khâm phục rồi. Ở Sài Gòn, đất hẹp người đông mà Thăng giữ được sân khấu của Hotel tên tuổi như vậy đã khẳng định được tên tuổi và tay nghề của mình, anh chúc mừng Chú Thăng nhe. Anh nghĩ, ở QuenBee và các Hotel tên tuổi trong Sài Gòn là những ban nhạc phải có tầm vóc Quốc Tế. Do đó, anh dám chắc là ban nhạc của Thăng chơi hay rồi.

Thư đã dài, vài hàng thăm Thăng, bây giờ có email rồi thì thư thoảng mình hỏi thăm nhau nhé. Cho anh gửi lời thăm cả gia đình, và đương nhiên là Bà Xã em nữa.

Bye Thăng.
-----------

----- Forwarded Message -----
From: Thuc Dinh ......<......dthuc@live.com......>......
To: Tony Thang Dinh ......<......todi_1999@yahoo.com......>...... 
Sent: Friday, September 6, 2013 11:43 AM
Subject: JM Lam Thy & Thang Email
 
OK Thắng

Mình sẽ đọc từ từ và đăng bài, Thắng cứ gởi những tài liệu, hình ảnh v.v... và cũng nên cho cậu Diệm biết mình đăng bài của cậu trên KYDV.

Đây là Email của Thăng, trên website Ban nhạc Gipsy Fire http://bannhacgipsyfire.blogspot.com/ cũng có ở phần Giới thiệu - Liên hệ.

Email: tatthang05@yahoo.com
Phone: 
Home: (08)38476424
Cell: 0937833663

See you. Take care