Saturday, March 17, 2012

Lên Tiên Cung - Quan họ - Thúy Hường

Đại danh lam chùa Phật Tích và lễ hội Khán hoa Mẫu đơn

Th.s. Đỗ Thị Thủy

Theo thư tịch cổ và truyền thuyết, chùa Phật Tích tên chữ là “Vạn Phúc Tự” là nơi Phật giáo từ Ấn Độ đặt bước chân đầu tiên truyền giáo vào nước ta ngay từ buổi đầu Công nguyên. Thư tịch cổ còn cho biết: Vào thời nhà Đường, vua Đường đã cho người mang ba hòm xá lỵ của Phật đến đất Giao Châu để xây tháp, trong đó có một hòm ở chùa Phật Tích.

Đến thời vua Lý Thánh Tông, chùa Phật Tích được xây dựng thành đại danh lam, còn cho xây dựng một cây tháp cao 10 trượng, trong chứa pho tượng Phật, mình vàng cao 6 xích, đứng từ kinh thành Thăng Long nhìn thấy được. Dấu tích chân cây tháp cổ còn để lại, có kích thước rất lớn (9,20m x 9,20m) với những viên gạch ghi rõ niên đại xây dựng: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” (tức vào đời vua thứ 3 nhà Lý niên hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 4-(1057).

Dẫu trải hơn ngàn năm lịch sử, chùa xưa tháp cũ không còn nữa, nhưng dấu tích đại danh lam thời Lý vẫn còn với quy mô nền móng rất lớn, gồm 4 cấp nền được kè đá tảng và nhiều di vật cổ thời Lý như: tượng Phật A Di Đà, linh thú (sư tử, voi, trâu, tê giác, ngựa), tượng đầu người mình chim, chân tảng, chân cột, gạch ngói, con giống… Trong số những cổ vật độc đáo của thời Lý, đặc biệt là pho tượng Phật A Di Đà có vẻ đẹp đã vượt thời gian và không gian.

Pho tượng Phật A Di Đà đã hơn 1000 năm tuổi, vẫn còn nguyên vẻ đẹp ở nhiều phương diện như: Triết lý của Phật pháp, tạo hình, chất liệu, đường nét, hoa văn… Tượng được làm từ đá xanh nguyên khối trong tư thế ngồi thiền tĩnh tọa trên tòa sen: thân cao 1,845m, thon thả óng nuột và mềm mại bởi những đường cong và những nếp chảy của tấm áo cà sa khoác ngoài; khuôn mặt đẹp với đôi mắt hiền từ, lông mày thanh cong, miệng cười mỉm. Toàn bộ thân hình và khuôn mặt của tượng toát lên vẻ đẹp thánh thiện từ bi hỷ xả, như đang thấu nghe tiếng kêu cứu khổ cứu nạn của mọi kiếp chúng sinh để cứu khổ độ nạn.

Chùa Phật Tích còn nổi tiếng trong dân gian với lễ hội “Khán hoa mẫu đơn” (tức Hội xem hoa mẫu đơn) với thiên tình sử “Từ Thức gặp tiên”. Huyền thoại kể rằng: Xưa kia, vùng núi Phật Tích và vườn chùa Phật Tích trồng bạt ngàn hoa mẫu đơn. Hàng năm, xuân về hoa mẫu đơn nở đỏ rực cả một góc trời. Chùa Phật Tích mở hội đầu năm vào mồng 4 tháng giêng để đón năm mới, lễ Phật, cầu may. Từ muôn nơi người người đổ về đây trảy hội ngắm hoa vãn cảnh chùa. Trên trời, nàng tiên Giáng Hương thấy cảnh trần gian tuyệt đẹp, đã xin giáng trần dự hội chùa. Nhưng vô tình nàng Giáng Hương đánh gãy một cành hoa mẫu đơn giữa cửa chùa, nên bị chú tiểu giữ lại. Chàng Từ Thức bèn cởi áo khoác xin chuộc tội cho nàng. Cảm động với nghĩa cử cao đẹp của chàng trai hào hoa phong nhã, nàng Giáng Hương đã ngỏ lời hò hẹn với chàng và đã mời chàng về chốn “bồng lai” xin kết duyên vợ chồng. Và từ đó câu chuyện tình thơ mộng “Từ Thức gặp tiên” đã sống mãi với lễ hội Khán hoa mẫu đơn của chùa Phật Tích.

Mỗi khi tết đến xuân về người người lại nô nức rủ nhau về chùa Phật Tích trảy hội. Lễ hội Khán hoa mẫu đơn diễn ra tưng bừng nhộn nhịp, trước cửa chùa. Quan viên chức sắc hai hàng đón tiếp khách, trong chùa thì sư vãi tụng kinh lễ Phật, ngoài sân chùa bạt ngàn hoa mẫu đơn và người đến xem hoa.

Nguồn Thời Sự Phật Pháp

Thursday, March 15, 2012

Núi Thiên Thai (Bắc Ninh)

Núi Thiên thai có hình con rồng uốn lượn 9 khúc (dãy núi này gồm 9 ngọn núi liền nhau), nằm sát sông Đuống, ngọn cao nhất khoảng 150m, hiện nay núi Thiên Thai thuộc 2 xã Song Giang, Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, cách thành phố Bắc Ninh 20 km về phía nam.

Trái núi Thiên Thai được gọi là đầu rồng. Đây là nơi đã sinh ra vị danh nhân đất nước đó là: Thái sư Lê Văn Thịnh. Ngày xưa rừng thông phủ kín núi, trên đỉnh ngọn Thiên Thai có một ngôi chùa cổ trăm gian và một vườn hồng đào, đây là một giống đào đặc biệt, hoa nở thành từng chùm buông xuống như những chiếc đuôi cáo nên mới có cái tên là Hồng đào. Ngày xuân khách lên lễ chùa vãng cảnh vườn đào, dạo chơi rừng thông rồi hướng ra bể đông xem loan phượng ăn xoài.

Tại đây có đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh.

Phát hiện Rồng đá

Một ngày cuối năm 1992, người dân thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu (Gia Bình) dọn gạch vỡ, đá quanh đền thờ Thái Sư Lê Văn Thịnh thấy lộ ra khối đá lớn được đẽo, chạm đường nét tinh sảo, khoét sâu, mở rộng thì thấy lộ nguyên hình đầu rồng. Mọi người dùng đòn tre khiêng, người dùng xà beng, thanh gỗ làm đòn bẩy lên một rồng đá ước chừng 3 tấn được tại sân đền.

Rồng đá được đẽo, chạm miêu tả đầu, hai chân trước và một phần thân. Từ mặt đất lên đỉnh sọ rồng cao 0,76 mét, chiều ngang từ phải sang trái rộng 1,12 mét; chiều dọc từ trước ra sau dài 0,96 mét (xin lưu ý: số đo chia hết cho 8). Rồng được chạm vẩy; tai phải đặc, tai trái rỗng, hai chân trước gân guốc, mỗi chân xòe rộng 5 ngón nắm chặt hai khúc thân kéo vào trước ngực; đầu gục xuống, mắt trợn tròn, miệng há rộng để lộ hàm răng lởm chởm ngoạm khúc thân, quằn quại. Đây là rồng đá to nhất Đông Nam Á và được chạm khắc vào thời Lê [1]


Núi thiên thai và văn học, nghệ thuật

Núi Thiên thai được nhắc nhiều trong các làn điệu dân ca quan họ, ca dao, văn học hiện đại. Trong dân ca quan họ: “Trèo lên trên núi Thiên Thai, thấy chim Loan Phượng ăn Xoài biển đông”. Trong bài thơ Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm:

... Ai về bên kia sông Ðuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
...


Nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Núi Thiên Thai - Quan họ lời cổ - Tốp ca