Friday, September 27, 2013
ĐẤNG BẢO TRỢ GIỚI LAO ĐỘNG - JM. Lam Thy ĐVD.
ĐẤNG BẢO TRỢ GIỚI LAO ĐỘNG
(LỄ KÍNH THÁNH GIU-SE THỢ – 01/5)
JM. Lam Thy ĐVD.
Trong bài giảng tại Thánh lễ “Khai mạc sứ vụ Phê-rô của Giám mục Rô-ma” (được tổ chức tại quảng trường Thánh Phê-rô vào đúng ngày lễ “Thánh Giu-se – bạn trăm năm của Đức Maria” – 19/3/2013), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô I có nói về các đức tính gương mẫu của Thánh Cá Giu-se trong sứ mạng “canh giữ Mẹ Maria và Chúa Giê-su, đó là một sự canh giữ được nới rộng cho toàn thể Giáo Hội, như Chân phước Gio-an Phao-lô 2 đã nhấn mạnh: ”Thánh Giu-se, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Đức Giê-su Ki-tô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Đức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Tông huấn “Redemptoris Custos”, số 1)”.
Cuối bài giảng, ĐTC nhấn mạnh: “Và ở đây, tôi muốn ghi nhận thêm điều này: Chăm sóc, giữ gìn, đòi phải có sự tốt lành, đòi phải được sống với sự dịu dàng. Trong các sách Phúc Âm, thánh Giu-se xuất hiện như một người mạnh mẽ, can đảm, chuyên cần làm việc, nhưng trong tâm hồn Ngài trổi vượt một sự rất dịu dàng, đây không phải là đức tính của kẻ yếu, trái lại, nó chứng tỏ một tâm hồn mạnh mẽ và có khả năng chú ý, cảm thương, thực sự cởi mở, yêu thương đối với tha nhân. Chúng ta không được sợ sự tốt lành và dịu dàng!” Đó quả thực là một nhận định sáng suốt và đầy đủ về Đấng Bảo Trợ Hội Thánh. Hôm nay là ngày lễ kính Thánh Giu-se Thợ, xin được có đôi điều chia sẻ:
Trước hết cần phải hiểu từ “canh giữ” mà ĐTC đã dùng (“canh giữ Mẹ Maria và Chúa Giê-su”). Bình thường chúng ta hay nói Thánh Giu-se trông nom săn sóc Đức Mẹ và Chúa Giê-su, chớ không dùng từ canh giữ. Tuy nhiên, nếu chỉ là trông nom săn sóc thì mới chỉ là nuôi nấng giữ gìn; nhưng canh giữ còn hàm chứa một điều là cảnh giác để ngăn ngừa hoặc tránh né những khó khăn nguy hiểm có thể xảy đến. Kể từ khi khiêm nhường vâng phục Thánh ý của Thiên Chúa, đón nhận Mẹ Maria “đã chịu thai bởi phép Thánh Linh” để hiệp công dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế, Thánh Giu-se đã làm tròn trách vụ một người chồng, người cha trong gia đình Na-da-ret. Đồng thời, Thánh nhân còn canh giữ nhiệm nhặt Đức Mẹ và Chúa Giê-su trên hành trình đi Bê-lem để kiểm tra dân số, khi chấp nhận hang bò lừa làm nơi sinh hạ Chúa Con và nhất là cuộc tị nạn sang Ai Cập để tránh hung thần sát thủ Hê-rô-đê, ấy là chưa kể cuộc vất vả tìm Con tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Những đức tính “khó nghèo, vâng phục, khiết tịnh” (3 lời khuyên Phúc Âm) cùng với đức tính khiêm tốn, thầm lặng, kín đáo của Thánh Giu-se, đã chia sẻ trong bài “Cộng Tác Viên Đắc Lực” (Lễ “Thánh Giu-se bạn trăm năm Đức Maria” – 19/3/2013), nay xin đi vào vấn đề vì sao có Lễ kính Thánh Giu-se Thợ? Lễ kính này đã được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII thành lập vào năm 1955. Giáo Hội tôn vinh Thánh Cả Giu-se với Lễ kính Thánh Giu-se Thợ để thánh hóa ngày Quốc tế Lao Động (1/5), nhằm nhắc nhở các tín hữu hãy tôn trọng và nâng đỡ giới lao động, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người hãy làm việc bằng chính bàn tay và khối óc của mình, để xây dựng và phát triển bản thân, gia đình, thế giới mà Thiên Chúa đã dựng nên và trao cho con người cộng tác phát triển ngày một tiến bộ văn minh hơn. Chính Thánh Giu-se cũng là một người thợ, cũng đã dùng hai bàn tay để làm việc và nuôi sống gia đình thánh Na-da-ret. Thánh Kinh cũng nhấn mạnh rằng Đức Giê-su là thợ mộc, được Thánh Giu-se đào tạo cả về nhiệm vụ lẫn sự vất vả của nghề nghiệp.
Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho”; với thánh Phao-lô thì: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx.3,10). Vâng! Là con người trần thế, ai cũng phải lao động vất vả mới có miếng ăn. Đến ngay như Đức Giê-su Thiên-Chúa-làm-người cũng phải lao động. Lao động có hai chiều kích: Lao động trí óc và lao động chân tay; nhưng tất cả đều nhằm phục vụ cho cuộc sống con người, vì thế mới có câu “Lao động là vinh quang”. Với Thánh Cả Giu-se cũng vậy, nhưng còn hơn thế nữa, Thánh nhân đã cần cù lao động, âm thầm thinh lặng làm việc, đưa lại cho lao động một ý nghĩa cao sâu linh thánh. Quả thật Ngài chính là một người lao động, người chủ gia đình gương mẫu, thánh thiện, là cành huệ trắng luôn tỏa hương thơm ngát và không bao giờ tàn phai. Thánh nhân thật xứng đáng với tước hiệu Đấng Bảo Trợ giới Lao động, Bảo Trợ Giáo Hội, Bảo Trợ các Gia đình.
Mừng kính lễ Thánh Giu-se Thợ, người Ki-tô hữu hãy học nơi Thánh Cả Giu-se là “một người mạnh mẽ, can đảm, chuyên cần làm việc, nhưng trong tâm hồn Ngài trổi vượt một sự rất dịu dàng, đây không phải là đức tính của kẻ yếu, trái lại, nó chứng tỏ một tâm hồn mạnh mẽ và có khả năng chú ý, cảm thương, thực sự cởi mở, yêu thương đối với tha nhân”. Một cách cụ thể là hãy noi gương Thánh Cả ”Giữ gìn Chúa Giê-su với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến điều Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!” (ĐTC Phan-xi-cô I – “Bài giảng Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phê-rô” ngày 19/3/2013 – phần kết).
Ôi! “Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giu-se chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã trao phó hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguỵên nhập lễ lễ Thánh Giu-se Thợ).
(www.thanhlinh.net – www.tinmung.net – www.daobinhducme.net – 29/4/2013)
THÁNH GIU-SE - JM. Lam Thy ĐVD.
THÁNH GIU-SE
QUAN THẦY GIÁO XỨ DŨNG VY
* CỘNG TÁC VIÊN ĐẮC LỰC *
(Lễ kính Thánh Giu-se, bạn trăm năm của Đức Maria – 19/3)
JM. Lam Thy ĐVD.
Thói thường ở đời có nhiều công việc không thể hoạt động cách đơn lẻ, mà cần có sự hợp tác, cộng tác của nhiều người. Theo từ nguyên thì "cộng tác" (共 作) hay "hợp tác" (合 作) đều cùng có nghĩa là: "cùng góp sức hoàn thành một công việc nhằm một mục đích chung, nhưng có thể không cùng chung một trách nhiệm". Nói đến cộng tác là nói đến sự tin tưởng lẫn nhau, và chỉ có tin mới sẵn sàng hợp tác làm ăn. Đó là đối với con người với sự bất toàn cố hữu, nhưng đối với Thiên Chúa thì sao? Tất nhiên ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Người đã tạo dựng vũ trụ và con người, thì đâu còn sự gì Người không thể làm được ("Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được." – Mt 19, 23). Vậy mà Thánh Âu-tinh lại nói: "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài". Mới thoạt nghe thì thấy có vẻ không ổn, nhưng suy nghĩ cho kỹ sẽ thấy lời dạy của Thánh nhân thật chí lý.
Thật thế, khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ban cho sự tự do tuỵêt đối, và cũng vì được tự do như vậy, nên con người mới sa ngã và bị tội lỗi thống trị. Không muốn để loài người chìm ngập trong đau khổ, nên vì tình yêu, Thiên Chúa lại sai chính Con Một xuống thế, chịu chết trên thập giá để cứu độ nhân loại. Cứ nhìn thẳng vào Đức Giê-su Thiên Chúa sẽ thấy trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người (ở tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” – Ga 2, 7; trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” – Mc 6, 35-43; khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Si-lô-ê mới được sáng mắt – Ga 9, 1040; rồi trong những lần chữa bệnh cho mọi người, Đức Ki-tô luôn nói: “Đức tin của con đã chữa lành con”). Vấn đề sẽ hoàn toàn sáng tỏ khi tự đặt câu hỏi: Những kẻ trực tiếp lên án, bắt trói, đánh đòn, đóng đinh Đức Giê-su Thiên Chúa... mà không biết ăn năn hối cải (tức là những kẻ dứt khoát không cộng tác với Người), thì liệu có được hưởng phần rỗi hay không? Câu trả lời tất nhiên là không. Chỉ có những kẻ tin vào Người, sẵn sàng nghe Lời Người – kể cả những kẻ "chối chúa phản thầy" biết ăn năn hối cải – tức là biết cộng tác với Người trong chương trình cứu độ, mới được hưởng phần rỗi mà thôi.
Trong Giao Ước Mới, khi thực hiện chương trình giải thoát loài người khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa đã mời gọi con người cộng tác với Người. Có rất nhiều cộng tác viên ở giai đoạn đầu, nhưng nổi bật hơn cả là 3 nhân vật trọng tâm: Đức Maria, Thánh Giu-se và Thánh Gio-an Tẩy Giả. Về Đức Maria và Thánh Gio-an Tẩy Giả thì các sách Tin Mừng đều có những trình thuật khá chi tiết, nhưng riêng với Thánh Giu-se thì quá sơ lược, sơ lược đến độ có thể nói ngài chỉ như một bóng mờ trong chương trình cứu độ nhân loại được thực hiện qua Đức Ki-tô. Vậy mà tại sao Giáo Hội lại tôn phong ngài là bậc Thánh Cả (đứng đầu các thánh)? Vấn đề đặt ra chính ở điểm này. Trước hết, phải nói Thánh Giu-se đã sống trọn hảo 3 lời khuyên Phúc Âm: Khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Có thể nói cuộc đời và sự nghiệp của Thánh Giu-se không có gì đặc sắc, cao trọng trước con mắt người đời. Tuy là dòng dõi vua Đa-vít, nhưng Thánh nhân chỉ là một bác thợ mộc bình thường nơi làng quê nghèo khó Na-da-rét, ngày ngày cặm cụi với nghề thợ mộc đơn sơ để kiếm miếng cơm manh áo nuôi thân và phụ giúp Mẹ Maria dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế. Trong hoàn cảnh nghèo nàn như vậy mà phải đón nhận và dưỡng nuôi một "Người vốn giàu sang phú quý" (2Cr 8, 9) là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thì quả là không dễ dàng gì, nếu không có một nhân đức "khó nghèo" thực sự trong tâm hồn. Thánh Giu-se đã triệt để sống tinh thần nghèo khó, bởi chính Đấng "giàu sang phú quý" ấy cũng "đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có." (2Cr 8, 9) và khi Đấng ấy trưởng thành đã có lần phải thốt lên: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Lc 9, 58). Nghèo đến độ không có cả chỗ tựa đầu thì đủ hiểu Con Thiên Chúa giàu sang vinh hiển đã chấp nhận "mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế" để đem Nước Trời về cho "những ai có tinh thần nghèo khó" ("Tám mối phúc") vậy.
Về đức khiết tịnh thì chỉ có nơi những người "không biết đến việc vợ chồng" vì "không có khả năng", vì "bị hoạn" hoặc tự nguyện sống "vì Nước Trời" (đi tu), như Lời dạy của Đức Giê-su: "Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời." (Mt 19, 12). Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay lại giới thiệu về Thánh Giu-se là: "Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se." (Mt 1, 18), vậy thì phải hiểu như thế nào? Luật hôn nhân của Do thái xưa quy định trai gái trưởng thành thì phải đính hôn và kể từ khi đính hôn đã được coi là thành vợ chồng (vì thế mới dùng chữ “thành hôn” như câu trích trên), nhưng chưa sống chung, mà còn phải chờ ngày đằng trai chính thức đón đằng gái về (Việt Nam gọi là “rước dâu”) mới thực sự sống chung trong một gia đình. Thánh Giu-se và Đức Maria đã khấn nguyện sống khiết tịnh nhưng vẫn tuân giữ Lề Luật thành hôn với nhau và như thế các ngài đã không phải là tu sĩ nhưng vẫn sống khiết tịnh "vì Nước Trời" vậy. Và cũng vì thế, nên khi biết được Đức Maria có thai, Thánh nhân “không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” – Mt 1, 20).
Cũng theo lẽ thường tình, gặp những trường hợp như vậy thì chắc chắn người chồng sẽ làm ầm ĩ, rồi tố giác ra làng xã để xử (chiếu theo luật Mô-sê có thể bị ném đá cho đến chết), ấy là chưa kể ở thời đại ngày nay, anh chồng còn “tự xử án vợ” bằng cách thượng cẳng chân hạ cẳng tay hoặc “xin tí huyết” nữa. Nhưng Thánh Giu-se đã không làm thế, vì Người “là người công chính” (Mt 1, 19), lẽ tất nhiên chỉ còn một cách âm thầm bỏ đi là thượng sách. Ngay ở giai đoạn gay go nhất ấy, thì Thiên Chúa đã can thiệp. Khi được thiên sứ truyền tin "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần." (Mt 1, 20), Thánh Giu-se đã vâng phục một cách tuyệt đối, không một lời băn khoăn thắc mắc, than vãn âu lo, hoặc khéo léo chối từ. Và như thế, lại thêm một điểm son chói lọi: Thánh nhân đã có một đức tin cực kỳ vững chắc. Chỉ có tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, thì trong hoàn cảnh éo le như vậy mới có thể vâng phục được.
Quả thực, Thánh Giu-se là một con người rất đơn sơ giản dị, khiêm nhường, ít nói, nhưng lại là một người rất yêu mến, tin tưởng và phó thác cả cuộc đời vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự đơn sơ giản dị được bày tỏ qua việc lắng nghe và thực thi Thánh ý của Thiên Chúa, cho dù Lời Người mời gọi Thánh nhân chỉ qua một giấc mơ! Ngài không thắc mắc, than vãn hoặc đưa ra ý kiến riêng, cũng chẳng chần chờ, mà mau mắn xin vâng và thực hiện theo thánh ý của Thiên Chúa. Tấm lòng đơn sơ, giản dị, khiêm cung của Thánh nhân thể hiện thật cụ thể trong suốt cuộc đời trần thế, thông qua việc ngài chu toàn bổn phận của người chồng, người cha trong gia đình nơi mái ấm Na-da-rét, chu toàn giới luật của tiền nhân, là một công dân gương mẫu đối với xã hội, sống chan hòa yêu thương với mọi người. Tin Mừng đã minh chứng điều đó qua việc ngài giữ đúng tập tục truyền thống (luật Mô-sê) và luật pháp xã hội (kê khai nhân khẩu) trước và sau ngày Hài Nhi Giê-su giáng thế, qua việc ngài cùng với mọi người trẩy hội đền thờ hằng năm.
Sự tận tụy, vâng phục tuyệt đối Thánh ý của Thiên Chúa, qua việc cùng với Mẹ Maria dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế, để “Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.” (Lc 2, 52), chứng tỏ Thánh Giu-se là một tấm gương tuỵêt hảo về đức công chính, như lời nhận xét của người đương thời (Mt 1, 19) và càng toả sáng đến muôn đời hậu thế. Không những thế, sự âm thầm cộng tác với dưỡng tử Ngôi Lời Nhập Thể trong hành trình thi hành sứ vụ Thiên Chúa Ngôi Cha trao phó, đã chứng minh Thánh Giu-se chu toàn sứ mệnh từ Ơn Gọi làm con cái Thiên Chúa thông qua việc tham dự vào 3 chức vụ Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả của Đấng Cứu Độ trần gian. Hoá cho nên, người tín hữu không lạ khi thấy trong muôn vàn vị thánh – ngoại trừ Mẹ Maria được Thiên Chúa ân thưởng và tôn phong cách riêng trong vai trò làm Mẹ Thiên Chúa – Giáo Hội đã chiêm ngưỡng và tôn phong Thánh Giu-se là Thánh Cả trên hết các thánh, đặt Ngài là Đấng bảo trợ Giáo Hội, gia đình và mỗi con người, nhất là các bậc gia trưởng trong gia đình.
Người Ki-tô hữu ngày hôm nay không những học tập và thực hành triệt để tấm gương mẫu mực sống ba lời khuyên của Phúc Âm nơi Thánh Cả Giu-se, mà trên hết hãy cầu xin cho được ơn đức tin trọn hảo như Thánh Cả, để cùng với toàn thể Giáo Hội cộng tác với Đức Giê-su Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại. Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Ðức Giê-su cho thánh cả Giu-se và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, cho Giáo Hội luôn luôn cộng tác với Ðức Giê-su để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thánh Giu-se, Bạn Trăm Năm Đức Maria).
(www.thanhlinh.net – www.tinmung.net – www.daobinhducme.net – 15/3/2013)
ĐIỆU RU NGÚT NGÀN - JM. Lam Thy ĐVD.
ĐIỆU RU NGÚT NGÀN
Truyện ngắn – JM. Lam Thy ĐVD.
Trước khi vào truyện: Khi bắt đầu viết cho nguyệt san “Chia Sẻ Tin Mừng” của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam, tác giả dựa trên một chuyện có thật trong dòng hồi ức về quê hương để viết nên truyện ngắn này. Tuy nhiên, để tránh những hiểu lầm không đáng có, nên tên nhân vật đã được hư cấu hoàn toàn. Mọi trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên, nằm ngoài chủ định của tác giả.
“Sắc Đỏ nhuộm đầm trong Máu Thánh, xin chỉ vì dâng, mừng kính Đức Bà, giúp Chúa Con cứu chuộc (i-hi-hi) người ta. Công phúc trọng (i-hi-hi). Công phúc trọng hơn là, hơn là thủ tiết (i-hi-hi)”. Giọng ca trong vắt của Liên vút cao trong bầu không khí lắng đọng của thánh đường. Hôm nay là buổi dâng hoa kết thúc Tháng Hoa, nên mọi người tới nhà thờ thật đông. Đông, nhưng rất trang nghiêm. Và bầu khí đó càng làm tăng thêm cảm xúc của cộng đoàn, theo từng âm điệu của lời ca tiếng hát mà đội dâng hoa dâng lên Đức Mẹ.
Trong số gần 20 chị em dâng hoa lứa tuổi thiếu niên, có lẽ Liên lớn tuổi hơn cả. Nàng năm nay đang trong tuổi “bẻ gẫy sừng trâu” (“mười bảy bẻ gãy sừng trâu” – Tục ngữ). Từ 3 năm nay, Liên phụ bán tạp hoá cho mẹ, rồi dần dần được mẹ trao cho trực tiếp trông coi cửa hàng, vì mẹ già nay đã yếu lắm. Tuy nổi tiếng là một cô hàng xén chanh chua ở chợ Ve (Dũng Vy – Tiên Du – Bắc Ninh), nhưng ngoài việc buôn bán ra, thì nàng lại là một cô gái rất hồn nhiên vui tính đối với mọi người. “Nhất là giọng ca của nàng thì thật tuyệt !”, Dũng thường nghĩ vậy và còn nói ra miệng nữa, mỗi khi nghe ai đó chê trách Liên. Và mỗi lần như thế, Dũng lại thầm nhủ : “Ai cậy mà bênh. Rõ đoảng !”. Nhưng mà … ô kìa … hình như Dũng cứ rất thích được bênh vực người bạn gái nhỏ, cũng là bạn học hồi cùng học chung trường làng. Cứ mỗi khi hết hè, phải ra Hà Nội vào năm học mới, là y như rằng Dũng lại thấy thiêu thiếu, văng vắng, nhơ nhớ … làm sao ấy, không thể tả được… “Rõ đoảng !”.
Năm nay, trường cho nghỉ sớm hơn mọi năm vì cái hội nghị Giơ-neo thả neo gì đó (Genève), Dũng cũng chẳng thèm để ý. Chàng vù ngay về quê, để lại được thấy Liên thật chanh chua khi bán hàng, rất hồn nhiên khi vui chơi với bạn, và thật trong trẻo thánh thót khi hát thánh ca. Thế rồi … chưa hết 3 tháng hè, Dũng theo gia đình di cư. Gia đình Liên không đi cùng dịp với gia đình Dũng. Có lẽ họ ở lại.
- Chẳng có bí quyết gì đâu, chỉ tại chúng tôi yêu nhau, rất yêu nhau, mà thôi.
- Thế nhưng … vì sao anh lai … vượt qua được …
- Nào biết vì sao hay vì trăng. Yêu nhau thì “tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua” cái vù !
- Vậy anh yêu chị ấy từ hồi nào ?
- Từ hồi tóc còn để chỏm cơ. Cái hồi tôi mê giọng hát cô Liên chuyên solo “Sắc Đỏ” khi dâng hoa ấy.
Trả lời xong, Dũng thầm nghĩ “mình cũng lém lỉnh ra trò đấy chứ !” Và chẳng để cho hỏi thêm, Dũng Liên cùng song ca : “Sắc Đỏ nhuộm đầm trong Máu Thánh, xin chỉ vì dâng, mừng kính Đức Bà, giúp Chúa Con cứu chuộc (i hi hi) người ta. Công phúc trọng (i hi hi…), công phúc trọng hơn là thủ tiết (i hi hi…)…”. Căn phòng nhỏ vui nhộn hẳn lên. Chàng phóng viên nghiệp dư buông cả bút, hát theo hai vợ chồng tóc đã muối tiêu “Quỳ lạy Mẹ trinh khiết không ai người sánh tầy. Toà cao cực sáng láng trên tầng mây, Ngày hôm nay khắp chúng dân vui mừng chúc tụng. Mấy đoá hoa tiến Nữ Vương Đồng Trinh, mấy đoá hoa tiến Nữ Vương Thiên Đình” (theo điệu bài thánh ca “Euge sobole Sanctorum”).
Thời gian trôi thật nhanh, thấm thoát mà … năm 1975 định mệnh (miền Nam VN thất thủ) cũng tới …
Sau đám ma của bà, người ta cứ thấy trong căn nhà trống trải ấy, một bóng người lưng đã còng gập xuống, lủi thủi ra vào và cứ đến giấc trưa là lại thấy phủ phục trước bức ảnh Đức Mẹ ban tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Đa Minh. Con cháu, đứa thì ở riêng, đứa thì đi làm, đi học… và ông đã thực sự trở thành một bóng ma âm thầm trong căn nhà hoang vắng, để … nuối tiếc dĩ vãng … Bao giờ cho ông quên được người bạn đầu gối tay ấp, hơn 40 năm qua không một đêm nào quên đọc kinh Mân Côi. Bà đã tâm sự với ông rằng, kể cả quãng thời gian sa vòng trụy lạc, bà vẫn không quên đọc kinh Mân Côi, dù có nhiều đêm bà chỉ đọc được vài kinh rồi khóc nấc lên và ngủ thiếp đi. Thời gian làm bạn với ông thì khỏi nói, nhiều khi ông cứ phải nại cớ chuyện này chuyện khác về muộn, để tránh giờ đọc kinh mà bà chỉ muốn hai vợ chồng cùng đọc. Ông cũng phải công nhận một điều là ảnh hưởng của bà rất lớn, đã khiến ông dần dần chăm đọc kinh hơn, nhất là khi ông bà tuổi ngoài năm mươi, đã cùng gia nhập Gia đình Đa Minh, thì hằng đêm, giờ kinh tối đã trở thành nhu cầu không thể thiếu. Và, “hình như đời sống tâm linh của mình ngày một thăng tiến, dồi dào hơn” – ông nghĩ thế.
Một buổi chiều êm ả giữa tháng 10/1999, đi lễ chiều sớm hơn thường lệ, anh chàng phóng viên nghiệp dư ngày nào, giờ đây tóc đã bạc trắng. bắt gặp ông già ngồi trên ghế đá trước đài Đức Me ở cuối nhà thờ. Thói quen này của ông cũng diễn ra đã khá lâu, nhưng hôm nay hình như ông không đọc kinh mà đang hát thì phải. Lại gần, thì ra ông hát thật. Và không hẹn mà nên, hai mái đầu bạc cùng hoà chung một nhịp dù giọng đã khàn đục cả : “Một tràng Hoa Mân Côi hương thơm ngào ngạt thắm ân tình. Một lời kinh sám hối, xin dâng về Nữ Vương hiển vinh…”; đến TK 2 : “Khi đau thương ấp đầy như vườn loang máu mồ hôi, như gai đâm, như chịu nát đòn, như khi nhận thập tự hy tế, kết hoa kinh để dâng Mẹ” (TCCĐ “Tràng Hoa Mân Côi” – Lm. Kim Long), thì hai lão già ôm lấy nhau, không hát được nữa, mà khóc nức nở như trẻ thơ …
(Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam – Nguyệt san Chia Sẻ Tin Mừng, số tháng 10/2005 – Trang web MLCN www.Thanhlinh.net – 03/5/08).
http://www.giaoxugiaohovietnam.com/0-TuLieu/ThanhGiuSe/StJoseph.jpg
Truyện ngắn – JM. Lam Thy ĐVD.
Trước khi vào truyện: Khi bắt đầu viết cho nguyệt san “Chia Sẻ Tin Mừng” của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam, tác giả dựa trên một chuyện có thật trong dòng hồi ức về quê hương để viết nên truyện ngắn này. Tuy nhiên, để tránh những hiểu lầm không đáng có, nên tên nhân vật đã được hư cấu hoàn toàn. Mọi trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên, nằm ngoài chủ định của tác giả.
“Sắc Đỏ nhuộm đầm trong Máu Thánh, xin chỉ vì dâng, mừng kính Đức Bà, giúp Chúa Con cứu chuộc (i-hi-hi) người ta. Công phúc trọng (i-hi-hi). Công phúc trọng hơn là, hơn là thủ tiết (i-hi-hi)”. Giọng ca trong vắt của Liên vút cao trong bầu không khí lắng đọng của thánh đường. Hôm nay là buổi dâng hoa kết thúc Tháng Hoa, nên mọi người tới nhà thờ thật đông. Đông, nhưng rất trang nghiêm. Và bầu khí đó càng làm tăng thêm cảm xúc của cộng đoàn, theo từng âm điệu của lời ca tiếng hát mà đội dâng hoa dâng lên Đức Mẹ.
Trong số gần 20 chị em dâng hoa lứa tuổi thiếu niên, có lẽ Liên lớn tuổi hơn cả. Nàng năm nay đang trong tuổi “bẻ gẫy sừng trâu” (“mười bảy bẻ gãy sừng trâu” – Tục ngữ). Từ 3 năm nay, Liên phụ bán tạp hoá cho mẹ, rồi dần dần được mẹ trao cho trực tiếp trông coi cửa hàng, vì mẹ già nay đã yếu lắm. Tuy nổi tiếng là một cô hàng xén chanh chua ở chợ Ve (Dũng Vy – Tiên Du – Bắc Ninh), nhưng ngoài việc buôn bán ra, thì nàng lại là một cô gái rất hồn nhiên vui tính đối với mọi người. “Nhất là giọng ca của nàng thì thật tuyệt !”, Dũng thường nghĩ vậy và còn nói ra miệng nữa, mỗi khi nghe ai đó chê trách Liên. Và mỗi lần như thế, Dũng lại thầm nhủ : “Ai cậy mà bênh. Rõ đoảng !”. Nhưng mà … ô kìa … hình như Dũng cứ rất thích được bênh vực người bạn gái nhỏ, cũng là bạn học hồi cùng học chung trường làng. Cứ mỗi khi hết hè, phải ra Hà Nội vào năm học mới, là y như rằng Dũng lại thấy thiêu thiếu, văng vắng, nhơ nhớ … làm sao ấy, không thể tả được… “Rõ đoảng !”.
Năm nay, trường cho nghỉ sớm hơn mọi năm vì cái hội nghị Giơ-neo thả neo gì đó (Genève), Dũng cũng chẳng thèm để ý. Chàng vù ngay về quê, để lại được thấy Liên thật chanh chua khi bán hàng, rất hồn nhiên khi vui chơi với bạn, và thật trong trẻo thánh thót khi hát thánh ca. Thế rồi … chưa hết 3 tháng hè, Dũng theo gia đình di cư. Gia đình Liên không đi cùng dịp với gia đình Dũng. Có lẽ họ ở lại.
*
* *
Sáu năm sau, Dũng đi quân dịch, đồn trú tại Kontum. Một lần quá vui với bạn bè, Dũng vào … ‘nhà cho thuê’ và bất ngờ gặp lại Liên! Cuộc hội ngộ đầy éo le và nghịch lý, khiến hai người như chết đứng. Tiếp theo là nuớc mắt, và một chuỗi dài tâm sự trong thổn thức… Thì ra khi Dũng rời khỏi làng chưa được bao lâu thì bà mẹ của Lan qua đời. Mồ côi bố, nay lại mồ côi mẹ, cộng thêm một bầu không khí thời sự mới, khiến tính tình Liên thay đổi hẳn. Sự hồn nhiên vui vẻ, kể cả chanh chua nữa, không còn trong Liên. Hình như mãi tới chuyến tàu thủy cuối cùng chở những người di cư, mới có mặt Liên. Nàng được ông chú ruột mang đi; nhưng vào miền Nam được khoảng một năm thì chú nàng cũng theo bố mẹ nốt, bỏ nàng ở lại với bà thím khó tính. Thế rồi cuộc đời đưa đẩy, trải qua đủ thứ nghề, Liên trôi giạt ra miền Trung, và … định cư tại Kontum. Một khoảng thời gian dài về sau cái đêm nghịch lữ ấy, thì cái nghịch cảnh trớ trêu lại trở nên … có hậu : Dũng và Liên lấy nhau. Hết thời hạn quân dịch, họ đưa nhau về Saigon sinh sống. Rồi 5 tác phẩm nối đuôi nhau chào đời : 2 trai + 3 gái. Một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, khiến nhiều người phát thèm và ganh tị. Tò mò hỏi bí quyết, họ cùng cười vang lên : - Chẳng có bí quyết gì đâu, chỉ tại chúng tôi yêu nhau, rất yêu nhau, mà thôi.
- Thế nhưng … vì sao anh lai … vượt qua được …
- Nào biết vì sao hay vì trăng. Yêu nhau thì “tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua” cái vù !
- Vậy anh yêu chị ấy từ hồi nào ?
- Từ hồi tóc còn để chỏm cơ. Cái hồi tôi mê giọng hát cô Liên chuyên solo “Sắc Đỏ” khi dâng hoa ấy.
Trả lời xong, Dũng thầm nghĩ “mình cũng lém lỉnh ra trò đấy chứ !” Và chẳng để cho hỏi thêm, Dũng Liên cùng song ca : “Sắc Đỏ nhuộm đầm trong Máu Thánh, xin chỉ vì dâng, mừng kính Đức Bà, giúp Chúa Con cứu chuộc (i hi hi) người ta. Công phúc trọng (i hi hi…), công phúc trọng hơn là thủ tiết (i hi hi…)…”. Căn phòng nhỏ vui nhộn hẳn lên. Chàng phóng viên nghiệp dư buông cả bút, hát theo hai vợ chồng tóc đã muối tiêu “Quỳ lạy Mẹ trinh khiết không ai người sánh tầy. Toà cao cực sáng láng trên tầng mây, Ngày hôm nay khắp chúng dân vui mừng chúc tụng. Mấy đoá hoa tiến Nữ Vương Đồng Trinh, mấy đoá hoa tiến Nữ Vương Thiên Đình” (theo điệu bài thánh ca “Euge sobole Sanctorum”).
Thời gian trôi thật nhanh, thấm thoát mà … năm 1975 định mệnh (miền Nam VN thất thủ) cũng tới …
*
* *
Ông phải kề tai sát miệng bà mới nghe được giọng thều thào đã hơi ngọng của bà : “Ông này, nhớ đeo tràng hạt vào cổ cho tôi đấy, nhé!” Hình như bà lẫn mất rồi, vì ông đã mang cỗ tràng hạt vào cổ theo yêu cầu cuối cùng của bà, từ ba hôm nay. Và đã ba hôm liền, ông hằng ngày áp sát vào khuôn mặt nhăn nheo mất hết sinh khí ấy, để cùng bà đọc kinh. Những lúc như thế, đôi tay run rẩy của bà luôn ôm lấy cây thánh giá nhỏ đặt trên đôi môi khô héo. Đôi môi bà lại mấp máy, ông cố hết sức lắng nghe giọng nói đứt quãng của người bạn đời : “Anh … D…ũng, a…a…nh có y…ê…u e…m khơ… khơ… kh…ông ? ”. Tiếng bà nhỏ dần và tắt lịm. Ông khàn khàn giọng, muốn gào to lên mà không được : “Anh yêu em vô cùng, Liên ơi ! Đừng bỏ anh …”. Sau đám ma của bà, người ta cứ thấy trong căn nhà trống trải ấy, một bóng người lưng đã còng gập xuống, lủi thủi ra vào và cứ đến giấc trưa là lại thấy phủ phục trước bức ảnh Đức Mẹ ban tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Đa Minh. Con cháu, đứa thì ở riêng, đứa thì đi làm, đi học… và ông đã thực sự trở thành một bóng ma âm thầm trong căn nhà hoang vắng, để … nuối tiếc dĩ vãng … Bao giờ cho ông quên được người bạn đầu gối tay ấp, hơn 40 năm qua không một đêm nào quên đọc kinh Mân Côi. Bà đã tâm sự với ông rằng, kể cả quãng thời gian sa vòng trụy lạc, bà vẫn không quên đọc kinh Mân Côi, dù có nhiều đêm bà chỉ đọc được vài kinh rồi khóc nấc lên và ngủ thiếp đi. Thời gian làm bạn với ông thì khỏi nói, nhiều khi ông cứ phải nại cớ chuyện này chuyện khác về muộn, để tránh giờ đọc kinh mà bà chỉ muốn hai vợ chồng cùng đọc. Ông cũng phải công nhận một điều là ảnh hưởng của bà rất lớn, đã khiến ông dần dần chăm đọc kinh hơn, nhất là khi ông bà tuổi ngoài năm mươi, đã cùng gia nhập Gia đình Đa Minh, thì hằng đêm, giờ kinh tối đã trở thành nhu cầu không thể thiếu. Và, “hình như đời sống tâm linh của mình ngày một thăng tiến, dồi dào hơn” – ông nghĩ thế.
Một buổi chiều êm ả giữa tháng 10/1999, đi lễ chiều sớm hơn thường lệ, anh chàng phóng viên nghiệp dư ngày nào, giờ đây tóc đã bạc trắng. bắt gặp ông già ngồi trên ghế đá trước đài Đức Me ở cuối nhà thờ. Thói quen này của ông cũng diễn ra đã khá lâu, nhưng hôm nay hình như ông không đọc kinh mà đang hát thì phải. Lại gần, thì ra ông hát thật. Và không hẹn mà nên, hai mái đầu bạc cùng hoà chung một nhịp dù giọng đã khàn đục cả : “Một tràng Hoa Mân Côi hương thơm ngào ngạt thắm ân tình. Một lời kinh sám hối, xin dâng về Nữ Vương hiển vinh…”; đến TK 2 : “Khi đau thương ấp đầy như vườn loang máu mồ hôi, như gai đâm, như chịu nát đòn, như khi nhận thập tự hy tế, kết hoa kinh để dâng Mẹ” (TCCĐ “Tràng Hoa Mân Côi” – Lm. Kim Long), thì hai lão già ôm lấy nhau, không hát được nữa, mà khóc nức nở như trẻ thơ …
(Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam – Nguyệt san Chia Sẻ Tin Mừng, số tháng 10/2005 – Trang web MLCN www.Thanhlinh.net – 03/5/08).
http://www.giaoxugiaohovietnam.com/0-TuLieu/ThanhGiuSe/StJoseph.jpg
Subscribe to:
Posts (Atom)