Monday, May 7, 2012

Khám phá di tích bên bờ sông Đuống

Trong các dòng sông ở Việt Nam, Đuống có lẽ là dòng sông có mật độ các di tích lịch sử hai bên bờ dày đặc nhất. Sông dài gần 70 cây số, điểm đầu là ngã ba Dâu (huyện Đông Anh, Hà Nội), điểm cuối là ngã ba Mỹ Lộc (huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh) nối sông Hồng với sông Thái Bình.
 
Phía bờ Bắc sông là nơi phát tích của triều Lý, phía bờ Nam sông - thành Luy Lâu - là thủ phủ suốt gần một ngàn năm Bắc thuộc đã để lại rất nhiều làng cổ, chùa cổ và các di tích, đền thờ hai bên bờ sông.

Dạo chơi trên đường đê sông Đuống là thú vui của nhiều người trẻ Hà Nội. Đáng tiếc là con đường đê tuyệt đẹp này chỉ dành cho những du khách đi xe hai bánh chứ không thể phục vụ những đoàn khách trên các xe du lịch lớn.
 
Triền sông Đuống đẹp nhất vào khoảng tháng 11 - 12, khi nắng thu còn dịu, trời chỉ hơi se lạnh và hoa dại vàng rực nở bạt ngàn. Hai bên sông là cảnh làng mạc Bắc bộ xinh đẹp yên bình với những lớp nhà ngói nâu, lũy tre, đồng lúa…

Cứ đi vài cây số, những ai yêu thích kiến trúc cổ và những câu chuyện thần thoại, lịch sử lại sẽ phải dừng chân trước một mái đình cổ, một ngôi chùa tuổi đời gần ngàn năm, một đền thờ hứa hẹn nhiều câu chuyện ly kỳ. Một trong số đó là lăng Kinh Dương Vương cổ kính nằm trên một khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng, rợp bóng cây cổ thụ.
 
Rồi từ đê sông Đuống đi khoảng 300 mét vào thôn Á Lữ là gặp đền thờ Kinh Dương Vương rộng đến 3.000 mét vuông, cảnh quan rất đẹp. Bên trong hậu cung đền có ba ngai thờ: Ngai Kinh Dương Vương đặt ở gian giữa, ngai Lạc Long Quân ở bên phải, ngai Âu Cơ đặt ở bên trái. Ngoài các đồ thờ cúng, đền có lưu giữ 15 đạo sắc phong bằng chữ Hán thời Nguyễn, khẳng định đền thờ Kinh Dương Vương là lăng tẩm đế vương, có một sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 33.

Từ lăng Kinh Dương Vương đi một đoạn là đến chùa Bút Tháp tòa ngang, dãy dọc thâm nghiêm với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ độc đáo tài tình, có nhiều tượng Phật và cổ vật quý. Sông Đuống còn đi qua làng tranh Đông Hồ, rồi từ đó rẽ ngang thêm vài cây số là đến đền Bình Ngô - nơi thờ Lạc Long Quân - Âu Cơ.

Sông Đuống chảy hơn nửa đường về phía Đông thì gặp dãy núi Thiên Thai, tạo nên một vùng phong cảnh hữu tình. Từ đây, lại hàng loạt làng thờ An Dương Vương - Mỵ Châu. Đến gần cửa sông Lục Đầu Giang là cụm làng thờ Cao Lỗ Vương: Đông Trung, Bình Than, Văn Than, Kênh Phố, Tiểu Than…
 
Một buổi chiều dạo chơi hai bên bờ sông Đuống, du khách không chỉ được tận hưởng cảnh đẹp đồng quê, mà còn chiêm nghiệm được bao điều thú vị trước bề dày lịch sử vùng Kinh Bắc - cái nôi của văn hóa Việt Nam.



Monday, April 30, 2012

Lễ hội mùa Xuân và hội hát Quan họ

Cho đến tận ngày nay, dân gian vẫn truyền nhau về những lễ hội Quan họ nổi tiếng của một số làng Quan họ gốc như: Lim, Diềm, Bịu, Ó, Nhồi, Bùi, Bò, Nưa… với những câu ca:

“Mùng năm hội Ó
Mùng sáu hội Nhồi
Mùng bẩy hội Bùi…”

Hoặc

“Mùng năm hội Ó
Quan họ dồn về
Hội vui vui lắm
Chưa kịp đi tắm
Chưa kịp gội đầu
Giầu chưa kịp têm
Cau chưa kịp bổ
Miếng lành miếng xổ
Miếng lại quên vôi
Người có yêu tôi
Thì người cầm lấy”.

Giống như lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ cũng có hai phần: phần lễ và hội. Phần lễ là để thờ Thần (Thánh), Phật nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh là “cầu may” - tức cầu cho Thần, Phật phù hộ cho dân an vật thịnh, mùa màng phong đăng hòa cốc. Phần hội là diễn ra các tục trò dân gian vui chơi giải trí như: tuồng, chèo, ca trù, quan họ, vật… nhằm thư giãn sức dân sau những ngày mùa vụ vất vả trong năm. Khác với lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ thường có tục hát Quan họ diễn ra cả phần lễ và phần hội. Quan họ phần lễ là để hát những làn điệu cổ có nội dung ca ngợi công đức của Thần, Phật cầu may cho dân làng. Quan họ phần hội là để các liền anh, liền chị của các làng đến dự hội hát đối đáp giao lưu, mang đậm văn hóa lễ nghĩa của một vùng quê hàng ngàn năm văn hiến.

Vào những ngày hội của các làng Quan họ, các liền anh, liền chị Quan họ cùng quý khách thập phương nô nức đến trảy hội, bởi sức hấp dẫn của các lễ hội Quan họ là người ta được thưởng thức văn hóa Quan họ từ lề lối sinh hoạt cho đến lời ca tiếng hát ngọt ngào, sâu lắng tình nghĩa con người. Đối với các làng Quan họ “kết chạ” với nhau như: Diềm-Bịu, Bồ Sơn-Y Na-Khả Lễ… thì không những họ coi nhau như anh em ruột thịt trong cuộc sống hàng ngày, mà những ngày đình đám hội hè là dịp để sinh hoạt giao lưu văn hóa Quan họ, thắt chặt thêm mối quan hệ đầy tính nhân văn giữa hai làng. Thường thì từ vài ngày trước hội, làng có hội cử đôi Quan họ sang làng Chạ (bạn) để có nhời mời Quan họ bạn. Đúng hẹn, Quan họ chủ nhà sẽ ra tận đầu làng đón bạn (khách) “tay bắt mặt mừng” bằng những câu ca Quan họ nghe ngọt ngào, lịch thiệp, tế nhị, ví như:

“Ngày ngày ra đứng cổng làng
Trông về Quan họ mà mua lấy sầu
Ai làm mặt ủ mày chau
Ai làm đến nỗi nhớ nhau đi tìm
Ước gì đôi cánh như chim
Bay đến Quan họ để xem thế nào
Xem rằng ý ở làm sao
Nước thì không khát, nhưng khát khao tình”.

Khi đón được bạn, khách, Quan họ chủ nhà sẽ đưa bạn vào đình, chùa hát thờ Thần, Phật để cầu may, ví như:

“Chúng em ra tận đầu làng
Nghe lời thày dạy đón già thập phương
Lễ này có quả có hương
Dâng lên tam bảo Người biên đôi dòng
Người biên là tấm lòng thành
Mong người phù hộ an khang cửa nhà”.

Sau phần lễ là phần hội, Quan họ chủ nhà đưa bạn tham gia phần hát hội. Các liền anh, liền chị Quan họ từng tốp hát đối đáp giao duyên say sưa bên nhau ở sân đình, sân chùa, tràn cả xuống những vạt núi, đồi, ruộng và trên ao hồ quanh đình, chùa và đây chính là phần hấp dẫn nhất của các lễ hội Quan họ. Sau khi tham gia hát hội, Quan họ chủ nhà đưa bạn mình về “nhà chứa” để hát canh Quan họ với nhau. Vào canh hát Quan họ, bao giờ Quan họ chủ nhà cũng mời trầu nước bằng những cử chỉ, lời ca cung kính, tế nhị, như: “Nhất niên nhất lệ, đầu xuân năm mới, hội lệ làng em được đương Quan họ sang thăm đất nước làng em, trước là lễ Thần Phật, sau là vãng cảnh thăm đình chùa, xin mời đương Quan họ liền anh xơi trầu, xơi nước cho chị em chúng em được bằng lòng”. Tiếp theo Quan họ mời nhau hát rất khéo và trong canh hát bao giờ người ta cũng hát đôi, hát đối. Giữa canh hát Quan họ chủ nhà mời bạn xơi cơm, nước, bánh, quả. Mặc dù cỗ Quan họ rất to, nhưng Quan họ chủ nhà mời mọc khiêm tốn, tế nhị. Không những trong khi ca hát với nhau, mà ngay cả khi sinh hoạt ăn uống, Quan họ luôn luôn mời mọc nhau bằng những làn điệu lời ca ngọt ngào, lịch thiệp, tế nhị. Sau đó Quan họ chủ nhà sẽ mời bạn về từng thành viên trong bọn Quan họ để thăm hỏi động viên cha mẹ, anh em và tặng quà cho nhau.

Kết thúc hội, Quan họ chủ nhà lại đưa tiễn bạn ra về tận cổng làng. Ở đấy, họ còn giùng giằng quyến luyến bằng những lời ca, tiếng hát nghe sâu nặng ân nghĩa tình người, ví như:

“Người ơi, người ở đừng về
Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa…”

Như vậy, hội các làng Quan họ mặc dù chỉ diễn ra trong thời khắc, song dư âm về sự mến mộ, cung kính, lịch thiệp, tế nhị cùng lời ca tiếng hát ngọt ngào, sâu sắc của Quan họ chủ nhà đã mãi mãi đi vào tình cảm của các làng Quan họ bạn, cũng như quý khách thập phương. Và đầu xuân năm mới với những lễ hội của các làng Quan họ đã trở thành biểu tượng của văn hiến xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh.

Nguồn E-Ca Dao