Saturday, March 15, 2014

Viếng thăm khu Ông Tạ (tiếp theo) - Đinh Văn Thắng (Tony)

Viếng thăm khu Ông Tạ (tiếp theo) 
 
Đ tiếp theo thăm h hàng khu Ông T, tôi có ghé thăm gia đình ch ĐcNói đến gia đình ch Đc và gia đình tôi có mt s thân mt khá đc bitNhà tôi có h hai bên vi gia đình ch Đc, tôi phi gi ch Đc bng Dì, vì ch Đc là em ca cu Hôn và cu Đích, h bên phía M ca tôi xa hơn bên phía B tôiB tôi vi Bà Ngân là hai ch em con chú - bác, thành ra mi gi theo h bên niGia đình ch Đc đã giúp nhà tôi t Long Giao - Long Khánh v li Sài Gòn vào đu năm 1982. T năm 1954, gia đình bác Ngân (ông Nguyn Văn Hoài) và gia đình tôi rt thân v mi mt, ti la tt đn có nhauT nhng chuyn giúp đ nhau v vn đ mua bán nhà ca đến công ăn vic làm, hai gia đình đu giúp đ ln nhauCh Đc có nhc đến bà con hi ngoi và gi li hi thăm tt c h hàng ni ngoi xa gn bên Hoa KNgoài ra Ch y hi thăm rt nhiu v ch Sen (em chng ca ch Đc), và riêng gia đình anh Đinh Công Luy, ch y k khá nhiu s liên h h hàng cho tôi, và hi thăm gia đình anh Luy nhiu lm, ch y rt mong có ngày gp li gia đình anh LuyĐng thi tôi cũng gp Bác s Tun.
 
T trái qua phiThng, Hân (bn ca Tun và Thng), Bác s Tun. 

Bác s Tun vi tôi là bn bè t thuở u thơ, hai đa cũng có cùng mt vài ngưi bn hc cùng la cùng trưng Nguyn Thưng HinTun và tôi có ghé thăm mt nhà ngưi bn đ đi đám tang. Vô tình tôi gp li Hân Portland Oregon v chu tang M Già Tân Phú (Sài Gòn). C ba chúng tôi có ngày hi ngGia đình anh Nguyn Văn Đc (anh Lê) có hai ngưi con tt nghip ngành Y KhoaBác s Tun là cháu đích tôn ca ông Nguyn Văn Hoài, còn ngưi em là Nguyn Văn Khi tt nghip vi văn bng Y-SHai anh em tính tình rt khiêm nhưng, nói chuyn nhã nhn và ci m. Y-S Khi hin đang làm vic Bnh vin Trưng Vương Sài Gòn khong 20 năm nay, còn  BS Tun hin đang làm vic Qun 10 Sài Gòn trong nhin năm qua. Tôi có mi Tun và Khi đi chơi, thăm h hàng thuc gc Dũng Vy Giáo h Đng Tâm, th xã Đng Xoài (cách Sài Gòn 120km)Tóm tt, vào gia thp niên 1990, có mt s gia đình đã b Phưc Lý và di cư ti Giáo h Đng TâmLn ti tôi s thut li chuyn viếng thăm bà con Dũng Vy Đng Xoài. 
 
T trái qua phi: Hai anh em Y s Khi và Bác s Tun. 
 
T trái qua phi: Y s Khi, Bác s Tun và Thng. 
 
Tôi có gii thiu Khi "blog K Yếu Dũng Vy" do Đinh Tt Thc thc hinvà mi Khi tham gia cho Blog đưc phong phú và đa dng, Khi hin đang là cây bút cự phách ca bnh vin Trưng Vương, chuyên viết bài v đ tài Y Khoa cho my năm gn đây. Hy vng nay mai Khi s đóng góp bài v cho blog K Yếu Dũng Vy. Chuyn ca tôi và Tun-Khi thì dài lm, chúng tôi gp lại nhau đã ôn li biết bao k nim hi thơ utôi ch tóm tt by nhiêu cùng qúy đng hương, may ra có ngưi nhn ra bà con h hàng vi anh em Tun-Khi, thì đây là hình nh mi nht ca hai anh em Bác s + Y s. Và hy vng qúy đng hương có th tìm cách liên lc hai anh em h qua "blog K Yếu Dũng Vy" nếu cn. 
 
Tiếp đến tôi xin đưc gii thiu đến gia đình anh t - ch KhuyênGia đình anh t rt vui mng khi biết tôi v ăn Tết cùng gia đình. Gia đình anh t có t chc ăn mng "ngày v ca Cu Thng" ti nhà cháu Thanh (con ln ca anh t), sau ba ăn, anh em và my cu cháu có lên sân thượng ca hát vi đàn thùng cho vuiTôi đã c gng tìm li âm ng ca Sài Gòn ngày xưa, và tôi đã yêu cu ca hát cho vuiTht là khó quên nhng giây phútĐàn Thùng”, cùng nhau ca hát nhc Lam Phương, Vũ Thành An, Ngô Thy Miên, Quc Dũng (Đip Khúc Mùa Xuân), Y Vân, Trnh Công Sơn, Phm Duy và vân vân…. Vui lm…! 
 
 
T trái qua phi: Minh, Thanh, Hiếu (con r anh t) và anh Lc (chng ch Hin). 
 
Minh ct ging liên tc t bài này ti bài khác, và chúng tôi đã ln t theo vòng bàn đ mi ngưi cùng hát vi phương châm "Hát hay không bng hay hát..! Hát lên đi, hát lên đi…!" Tôi thì thích hát bè, cho nên cũng đóng góp khá nhiu cho không khí thêm vui nhn và thân thiết hơnTrưc khi tôi v li Hoa K, gia đình li t chc ti nhà ch HinTôi đã tn ng đến gi phút cui cùng trước khi ri xa gia đình, nhng giây phút này va vui li va bùi ngùi sp sa chia tay nhau 
 
 
T trái qua phiThng, ch Khuyên, ch Hin, Hng (gái út ch Khuyên), M và Hp. 
 
Nhc ti anh t, anh đã giúp tôi khá nhiu v đi thăm h hàng trong Sài Gòn. Anh t đã đưa tôi đến thăm gia đình bác Đinh Quang Tòng, bút hiu Tương Giang. Chc mt s qúy đng hương cũng đưc biết đến bác Tòng qua cây bút Tương Giang trong tp K Yếu Dũng Vy 1 và 2, Dũng Vy Quê Tôi, và nhiu tp v khác. Bác viết rt nhiu và n loát nhiu tuyn tp thơ. 
 
Hai v chng bác Đinh Quang Tòng. 
 
T trái qua phi: Nguyn Văn t, Đinh Quang Tòng. 
 
T trái qua phi: Thng, hai bác Đinh Quang Tòng. 
 
Tôi xin tm dng bút nơi đây và s thut li chuyn đi thăm Bác Tòng trong bài kế tiếp. Kính chúc qúy đng hương và h hàng ni ngoi xa gn sc khe di dào và tìm được nhiu nim vui trong cuc sng.   
 
Thân ái. 
 
Đinh Văn Thng. 
Dallas, Texas ngày 12 tháng 3, năm 2014. 

Wednesday, March 12, 2014

Một số hình ảnh cuộc thi Người đẹp Kinh Bắc 2014

Chủ nhật, 09/03/2014 - 15:28
 
Một số hình ảnh cuộc thi Người đẹp Kinh Bắc 2014
 
Từ ngày 5-3, vòng chung khảo cuộc thi Người đẹp Kinh Bắc 2014 đã diễn ra với nhiều hoạt động sôi nổi, ý nghĩa. Báo Bắc Ninh điện tử xin giới thiệu một số hình ảnh cuộc thi.
 
Các Người đẹp Kinh Bắc 2014 thắp hương tại chùa Bút Tháp
 
Thắp hương tưởng niệm lăng Kinh Dương Vương
 
Trình diễn trang phục áo dài
 
Tìm hiểu về tranh Đông Hồ
 
Trình diễn trang phục quan họ tại Đền Đô
 
Cùng tìm hiểu nghề làm gốm ở Phù Lãng
 
Ảnh: Nhóm PV
 

Lên đỉnh non tiên

Thứ ba, 24/08/2010 - 09:35
 
Lên đỉnh non tiên
 
Trong số các ngọn núi của trấn Kinh Bắc xưa, dải Nguyệt Hằng sơn (trăng trên đỉnh núi) hay còn gọi là núi Chè (tên núi gắn liền với tên làng) thuộc hai xã Liên Bão và Hoàn Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) không phải là ngọn cao nhất.
 
Nhưng như cổ nhân đã đúc kết: “Núi không cốt ở cao, vấn đề là trên núi có Tiên ngụ. Sông không cốt ở sâu, niềm thiêng ở chỗ dưới sông có Rồng ở”. Dải Nguyệt Hằng sơn bao đời nay mang trong mình bao truyền thuyết vừa thực, vừa mơ, là nguồn cảm hứng sáng tạo cho những tâm hồn nghệ sỹ ngay từ lần đầu đặt bước chân mình lên đỉnh non tiên, được đắm mình cùng cỏ cây, hoa lá, nghe tiếng chim kêu, nước suối chảy để lắng hồn về những ngày xa xưa…

Núi Nguyệt Hằng xưa rừng rậm bao bọc. Những tán lá cây cổ thụ toả bóng bạt ngàn. Quanh núi đầy hoa thơm, quả lạ. Chim chóc hót líu lo. Nước suối tuôn róc rách. Vượng khí từ khe núi bốc lên mát rượi, trong lành. Chẳng thế mà không biết tự lúc nào, cò vạc bay về làm tổ đỗ trắng xoá cả bìa rừng. Công hạc từng tốp bay lượn, đùa rỡn từng không.

Đứng trên đỉnh núi, bao quát toàn cảnh mới thấy cả dải Nguyệt Hằng có dáng hình như một người đàn bà với đầy đủ chân, tay, đầu… nằm phơi mình giữa cánh đồng xanh tươi, cạnh dòng Thiên Đức. Tích truyện dân gian bảo đấy là bà Tồ Cô to lớn, sau khi đội đá vá trời, khai thiên lập địa, bà cởi trần xuống sông tắm… và nằm ngủ quên giữa thảm cỏ xanh. Trời đất thánh thần cũng phát ghen khi nhìn thấy thân hình nõn nà của bà. Để cho cái đẹp khỏi mất đi, để cho những mảnh vải khỏi che lấp những chỗ gồ ghề, lồi lõm hấp dẫn, trời đã phù phép cho bà Tồ Cô hoá thành dải núi dài, giữ nguyên hình dáng người thiếu nữ khoả thân nằm ngủ giữa thanh thiên bạch nhật. Người đời nay vì thế mà vẫn hay gọi đây là núi cô Tiên.

Trên núi Nguyệt Hằng có Đền Thượng thờ Cao Sơn Đại Vương là sơn thần có công giúp Vua Hùng dẹp giặc, nhân dân làng Chè đời nối đời thờ ngài làm Thành hoàng làng. Trải bao triều đại phong kiến đều có sắc phong Thành hoàng và chỉ dụ cho người dân không được sao nhãng khói hương tuần tiết. Hàng năm, làng mở hội lệ 11 tháng giêng. Mới sáng sớm trống chiêng đã rộn rã, cờ, lọng, bát bửu, tàn xí rợp trời do trai đinh phò giá khiêng kiệu từ Đình lên Đền Thượng rước Thánh về làm lễ tế. Sau nghi thức tế Thánh (do Quan đám và các quan viên, bồi tế thực hiện) thì lễ hội mới chính thức diễn ra các hoạt động như: đấu vật; chọi gà; hát Quan họ trên thuyền…

 Không biết từ bao giờ, người dân sống quanh núi lấy việc trồng chè xanh cung cấp cho cả vùng là một phương kế sinh nhai. Vì thế mà quen gọi là Núi Chè. Bên cạnh một truyền thuyết dân gian về Núi cô Tiên, một Sơn thần hộ quốc an dân thì trên dải Nguyệt Hằng Sơn này còn lưu truyền một câu chuyện bảy thực ba hư về Bà Chúa Chè- một con người bằng xương bằng thịt làm khuynh đảo cung Vua, phủ Chúa- Tuyên phi Đặng Thị Huệ.

 Truyện lịch sử kể rằng: Núi Nguyệt Hằng là vùng đất linh, có huyệt tràng lớn tất sinh người tài ba. Trên quê hương làng Chè dù không có một dấu tích, thư tịch nào về Đặng Thị Huệ song người dân rất tự hào vì được sống trên quê hương bà Chúa Chè. Theo truyện Danh nhân Kinh Bắc (Tiến sĩ Trần Đình Luyện- Huy Cờ) khi viết về Bà Chúa Chè kể rằng: Thủa xa xưa có một người đàn ông họ Đặng đến núi Nguyệt Hằng vỡ đất lập nghiệp rồi gá nghĩa với một người con gái ở chốn này. Họ sinh được một người con gái mắt sáng, môi đỏ, da trắng. Lúc nhỏ đặt tên là Gái. Lớn lên, một hôm Gái lên núi hái sim thấy một con bướm to, màu sắc sặc sỡ liền chạy theo. Đến khe suối có hoa thơm ngào ngạt, nước chảy róc rách, chim hót líu lo, con bướm thoắt bay lên trời hoá thành bà tiên ban cho Gái một cành hoa lạ, cánh trắng nuột nà, mùi thơm ngào ngạt. Về nhà Gái khoe với bố mẹ cành hoa bà tiên ban. Nhìn bông hoa huệ con gái cầm trên tay, vợ chồng họ Đặng liền đổi tên con là Huệ. Từ nhỏ Huệ đã tỏ rõ khí phách khác lạ, bản lĩnh hơn người, dù chơi các trò chơi dân gian với trẻ nhỏ trong làng nhưng luôn được tôn sùng là thủ lĩnh. Đánh cờ người giữ vai trò Tướng bà. Diễn tuồng đóng vai Vua bà.

Khi Đặng Thị Huệ đến tuổi thiếu nữ, được Quan chiêm tinh đến tận nhà xem tướng số, thấy ứng với ngôi sao lạ hàng đêm chói sáng trên bầu trời vùng Kinh Bắc đã được tiến cử vào Cung Vua làm Cung phi. Tiếng là vào Cung nhưng Đặng Thị Huệ chưa một lần gặp Vua. Được Hoàng hậu cho vào hầu Thái tử Lê Duy Vĩ, Đặng Thị Huệ đã tìm mọi cách lấy lòng Thái tử nhưng cũng chẳng bao lâu bị phát hiện, Hoàng hậu đã sai người đưa vào lãnh cung.

Tình cờ một lần Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mở tiệc, Đặng Thị Huệ được giao nhiệm vụ dâng Chúa hoa quả. Ngay từ lần đầu gặp mặt, vốn bản tính háo sắc, Trịnh Sâm đã say đắm nhan sắc Đặng Thị Huệ để rồi những ngày tháng sau đấy gây lên cảnh huynh đệ tương tàn, nhân dân lầm than thống khổ do tranh giành quyền lực.

Các nhà sử học đã ví: Đặng Thị Huệ như một ngôi sao sáng xuất hiện đột ngột trên bầu trời rồi lao xuống núi Nguyệt Hằng vỡ tan, để lại trong đêm trường phong kiến một vệt sáng khó phai mờ.

Trên dải Nguyệt Hằng sơn dấu tích của Bà Chúa Chè không hề được để lại. Cũng giống như số phận của người con gái tài hoa, nhan sắc nhưng bạc phận, núi Chè với bạt ngàn rừng thông, lim, trám… dần mai một trước sức tàn phá của con người. Một thung lũng cò đẹp như bức tranh thủy mặc giờ chỉ còn trong hoài niệm của những trung niên, bô lão trong làng.

Không còn nhìn thấy cánh cò, cánh vạc về làng mỗi khi chiều xuống. Ngước mắt nhìn lên núi cao chỉ thấy trơ những tảng đá dường như chỉ chờ một trận mưa to là lăn xuống ruộng vườn, nhà cửa khiến người dân làng Chè mới giật mình nhận ra mình đã sai, đã sống không phải với núi, với Sơn thần, với những hoài niệm về cô Tiên, bà Chúa. Dự án trồng cây phủ xanh đất trống, đồi trọc được hàng chục hộ dân tham gia trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Nếu như trước đây chỉ có chè, sắn, trám, sấu thì nay có thêm thông, keo lá tràm, vải thiều, na, nhãn... Mô hình trang trại dần hình thành trên từng khoảnh đất mà hộ gia đình đăng ký dự án được giao. Thấm thoắt thoi đưa, đất lành chẳng phụ công người, một màu xanh mướt mát phủ kín núi Chè.

Cùng với trồng cây, gây rừng, điều đáng mừng ở núi Chè đã thoát khỏi sự nhòm ngó của những “thổ tặc”. Với cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, giao thông thuận lợi khi tiếp giáp với các Quốc lộ, tỉnh lộ lại nằm gần như trung tâm liên kết các di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng trong vùng như: Đền Đô, Chùa Phật Tích, Hội Lim… núi Chè đã và đang trở thành địa điểm khám phá, nghỉ dưỡng lý tưởng. Hàng năm tuy chưa có con số thống kê cụ thể nhưng theo người dân sống quanh núi có hàng nghìn lượt người (chủ yếu là học sinh, sinh viên) về đây thăm quan giải trí vào các dịp nghỉ lễ, ngày Tết. Nhiều thương gia, văn nghệ sĩ của Thủ đô Hà Nội và các địa phương lân cận đã đến đây dựng nhà, làm trang trại vừa để nghỉ ngơi cuối tuần vừa đón đầu phục vụ du lịch sinh thái trong tương lai.

Còn nhớ hôm ngồi uống rượu với nhạc sĩ Trần Tiến ở Trung tâm điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành, khi biết tôi là “trai thôn Chè” anh Tiến đã ký tặng tôi bản nhạc viết tay “Ngẫu hứng giao duyên” rất được người dân Bắc Ninh yêu mến. Tôi hỏi nhạc sĩ: “Sao anh lại viết: Trăng thôn Chè xanh buồn đến thế?. Khi viết bài này, chắc anh cũng đang ngồi uống rượu, ngắm trăng?”. Nhạc sĩ Trần Tiến bảo rằng: Đúng là khi viết bài này, tôi ngồi uống rượu ngắm trăng trên núi Chè, thấy nó thật cô đơn. Nếu không có cái đêm trăng định mệnh ấy, không có men say tình nghĩa của người Quan họ chưa chắc tôi đã có được “Ngẫu hứng giao duyên”.

Trước khi chia tay, tôi hẹn mời nhạc sĩ Trần Tiến trở lại Làng Chè để thêm một lần được uống rượu, ngắm trăng. Tôi quả quyết với anh rằng: Trăng thôn Chè giờ đây vẫn xanh nhưng không buồn nữa. Người dân nơi đây trọng tình, trọng nghĩa và hơn hết họ đã biết trân trọng những vốn quý của thiên nhiên, của lịch sử ban tặng. Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, tương lai không xa người dân Làng Chè đang hướng đến mục tiêu làm du lịch ngay chính trên dải Nguyệt Hằng sơn để non tiên tích tụ thêm vượng khí, đất lành chim thú trở về cho bức tranh sơn thuỷ hữu tình làm mê hoặc bước chân du khách.

Bút ký của Đào Đình Khoa

Source Bac Ninh Online