Blog KYDV

Wednesday, November 26, 2014

THƯ CẢM ƠN‏ - ĐINH VĂN DIỆM

From: Van Diem Dinh (lamthydvd@gmail.com)
Sent: Tue 11/25/14 6:55 PM
To: Thanh Linh (mangluoicaunguyen@gmail.com); Đạo Binh Đức Mẹ (daobinhducme@gmail.com); Luat Nguyen (caoluatop@gmail.com); ri cao (cao_nhan47@yahoo.com); Khai Nguyen (phaolo200930@yahoo.com); tuyen vu (tuyenbachvu@gmail.com); Tuyen Dinh (tuyend@yahoo.com); Hong Pham (hongpv@gmail.com); Hac Tran (paullanhac@yahoo.com); Tony Thang Dinh (todi_1999@yahoo.com); Thức Đinh (dthuc@live.com); Ren Nguyen (rennguyen169@yahoo.com)

             
Trọng kính:
 
             * Quý Cha Linh hướng Thanhlinh.net.
* Quý Cha Linh giám, Cha Phó Linh giám Sernatus Legio Mariae VN.
* Quý Cha Giáo Giuse – Học viện Đa Minh VN (nguyên Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Đa Minh VN), Cha Đặc Trách Huynh đoàn Tỉnh, Cha Đặc trách HĐ/Gp Saigon (Tỉnh Dòng Đa Minh VN).
 
Con xin chân thành cảm tạ quý Cha đã cầu nguyện cho con thời gian vừa qua.
 
Kính thưa:
 
          + Quý ban Biên tập Thanhlinh.net, Daobinhducme.net, Lamhong.net.
          + Quý thân hửu, anh chị em và các cháu.
 
          Tôi thật xúc động khi được quý vị thăm hỏi, động viên và cầu nguyện trong 2 tuần lễ vừa qua. Ca mổ tiến triển tốt đẹp và thành công ;  tôi đã được xuất viện, hẹn tái khám vào thứ tư 3/12/2014.
 
Xin được sơ lược về tiền sử bệnh, hy vọng sẽ không làm rác tai quý Cha và quý vị:
 
Thực ra bệnh cườm mắt cũng không có gì  đáng lo; nhưng riêng trường hợp của tôi, có hơi đặc biệt:
 
Năm 2003, mắt trái bị cườm khô, đi mổ thấy rất nhẹ nhàng, không đau đớn chút nào, và mở băng ngay sau khi mổ 15 phút, không phải nằm viện. Hai năm sau, mắt phải bị cườm giống như trước. Không thấy triệu chứng đau đớn hay khó chịu gì cả. Mắt trái rất tốt, nhìn rất chuẩn (đọc sách, coi TV hay sử dụng computer… ngon lành). Đó là lý do khiến ngu mỗ khất lần, không đi điều trị.
 
Mãi tới năm nay, lên kế hoạch cuối năm sẽ đi mổ. Không ngờ bệnh đột phát: Đau đầu, nhức mắt, nôn ói không thể tưởng tượng. Vào bệnh viện mới biết để quá lâu, cườm khô đã chuyển thành cườm nước và nay đã quá già, nên mới bị “thiên đầu thống” và nôn ói như vậy. Cũng may là bản thân không bị tiểu đường, chớ nếu có tiểu đường thì không biết sẽ nặng tới đâu! Nằm tại Bv Thống Nhất (Vì Dân cũ) hơn một tuần, tới ba lần các bác sĩ hội chẩn, mới có kết luận “2M Glaucome cấp/Cơn tăng huyết áp”, thuộc loại bệnh nhân “CD: 110”.
 
Thống Nhất bó tay, ngày 19/11/2014 chuyển lên Bv chuyên khoa Mắt Điện Biên Phủ (Saint Paul cũ). Quyết định mổ ngay vào sáng 20/11. Các bệnh nhân khác chỉ cần một bác sĩ + 1 y tá, riêng ngu mỗ thì tới 2 bác sĩ tăng đầu, không xong, phải mời Bs trưởng khoa mới hoàn tất vụ mổ. Kết luận: MP TĂNG ÁP / ĐỤC T3 BÁN LỆCH NHẸ. Bs trưởng khoa thở phào: “Bác được lời đấy nhé! Người ta chỉ cần 1 lần tiêm thuốc tê và mổ trong khoảng 15 – 20 phút là xong. Riêng bác cái gì cũng gấp đôi: Thời gian hơn 60 phút, tiêm tê 2 lần!” Hú vía!!!
 
Dông dài đôi điều, mong được quý Cha và quý vị ban cho 2 chữ đại xá và một nụ cười, để ngu mỗ có 10 thang thuốc bổ dưỡng bệnh. Xin đạ tạ.
 
Kính chúc quý Cha và quý vị luôn được hồn an xác mạnh trong Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse.
 
Trân trọng,
Đ.V.DIỆM (26/11/2014).

Monday, November 24, 2014

Chuyện đời thường GX Dũng Vy, Tri Phương (phần 1)



Tiên Du Truyền hình
Published on May 5, 2014
         
Clip được ghi hình tháng 5-2005

Monday, November 17, 2014

Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) - Kiệt tác của Kiến Trúc và Điêu Khắc cổ



Văn hóa Việt Nam
Published on May 16, 2012

Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự 寧福寺) nằm ở bên đê sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp. Trong chùa có tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam.

Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc".

Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.

Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 789 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mô tip quen thuộc được trang trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật - trong đó có rồng - ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng tròn, sóng nước, hoa sen,... Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.

Hai kiệt tác điêu khắc khác nữa làm thành một bộ ba tác phẩm danh bất hư truyền là tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại Tổ sư và tượng Thị Kính. Pho tượng Tuyết Sơn ở đây cũng là một kiệt tác của thế kỷ 17.

Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.

Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Chùa có tháp Bảo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao. Tháp cao 13,05 m, thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.

Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động.

Chùa Phật Tích - Dấu ấn xưa và nay

Thứ Tư, 27/02/2013 - 09:12
 
Chùa Phật Tích - Dấu ấn xưa và nay
 
Con đường hành hương của Phật tử nước ta nếu như hướng về chùa Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) với chiều dài thời gian cổ nhất Việt Nam hay chùa Bái Đính (Ninh Bình) với quy mô lớn nhất Đông Nam Á, hẳn sẽ không thể không dừng chân nơi được ghi nhận là ngôi chùa có giá trị cổ vật lớn nhất Việt Nam: chùa Phật Tích (tại xã Phật Tích - huyện Tiên Du - Tỉnh Bắc Ninh).
 
Chùa Phật Tích nằm ở sườn Nam núi Vạn Phúc, xưa có tên là chùa Vạn Phúc Tự, là một trong những nơi được truyền bá Phật giáo sớm nhất từ Ấn Độ vào Việt Nam. Thiền sư Chuyết Chuyết Lý Thiên Tộ đã lập am tu hành tại đây 10 năm trước khi tới chùa Bút Tháp (Thuận Thành - Bắc Ninh).  Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý năm Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc : "Lí gia tam tế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo". Ngôi chùa vào thời Lý hiện nay không còn nữa, song những dấu tích lịch sử của nó vẫn ghi dấu ở nơi này, ngôi chùa mới được trùng tu xây dựng lại vẫn mang dấu ấn của một thời lịch sử và tâm linh của người Việt hàng bao thế kỉ trước…
 
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông cho xây dựng một cây tháp cao khoảng 10 trượng (mỗi trượng 4.2m). Một nhà khảo cổ người Pháp đã ghi chép lại sự kiện này với quy mô về chiều cao của nó: "Tháp cao khoảng 42m, đứng ở Thăng Long (khoảng 20km) cũng nhìn thấy. Tháp đổ lộ ra bức tượng Phật A di đà bằng đá xanh nguyên khối được dát vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kì diệu của bức tượng này, làng Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành Phật Tích. Bức tượng Phật này hiện vẫn được khán quan đặt tại chùa. Đây là bức tượng được coi là mẫu mực của Phật cổ Việt Nam.
Bức tượng được khắc bằng đá xanh nguyên khối trong tư thế ngồi trên tòa hoa sen cao 1,845m, với vóc dáng mềm mại, thon thả được tạo bởi những đường cong và nếp chảy của áo cà sa, khuôn mặt trái xoan hiền hậu với đôi mắt nhân từ, sống mũi thẳng, lông mày thanh tú, nụ cười phảng phất. Toàn bộ đã toát lên vẻ đẹp thánh thiện, từ bi mà tinh tường, anh minh có thể thấu hiểu nỗi niềm chúng sinh. Đó là ghi dấu không chỉ về tâm linh tôn sùng đạo Phật thời nhà Lý mà còn là vẻ đẹp điêu luyện của nghệ thuật điêu khắc, đặc biệt là tạc khắc tượng Phật với những đường nét mềm mại toàn mĩ như tâm linh người Việt vẫn từng quan niệm.
Về địa thế, Phật Tích được coi là nơi thắng địa với cảnh núi non sông nước tiên trần hư ảo. Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy ca  ngợi: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá...".
Năm 1071, Lý Thánh Tông du ngoạn đã viết chữ Phật dài 5m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Vẻ đẹp của cảnh chùa cũng làm lưu luyến bước chân của nàng tiên nữ Giáng Hương với câu chuyện tương truyền. Cảnh chùa đẹp, nàng giáng Hương dạo bước vãn cảnh, thấy loài hoa màu đỏ thắm của mẫu đơn đã lỡ tay hái, bị làng bắt vạ. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho nàng. Gặp duyên phải phận, họ kết duyên vợ chồng, sinh con ở chốn dương gian. Loài hoa mẫu đơn đã trở thành biểu tượng cho cảnh chùa tiên giới, hàng năm du khách thập phương lại tới dự lễ hội khán hoa mẫu đơn như ôn lại câu chuyện tình thơ mộng Từ Thức - Giáng Hương. Núi này vì thế cũng có tên gọi khác, đó là núi Tiên Du (núi có tiên du ngoạn).
Truyền thuyết này chẳng biết hư thực ra sao, nhưng theo quan niệm của Phật giáo, những người đã tu thành chính quả, nhưng không lên cõi niết bàn mà ở lại dương gian cứu khổ nạn, đó là cõi tiên. Vậy phải chăng đó là ước mơ của những con người lao khổ luôn khát khao một thế giới tiên bồng, được giúp đỡ và không bị lãng quên? Phật giáo nói riêng, tôn giáo nói chung, phải chăng chính là nơi của những huyền hồ hư thực của khát khao ước vọng con người?
Phật Tích cũng là trung tâm văn hóa chính trị thời Phật giáo Lí Trần. Thời bấy giờ vua  đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ).
Đám rước
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới trời sao, cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...".), một đại yến hội đã được mở ở đây.
Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá nhiều. Khi hòa bình lập lại đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá.
Hiện nay, chùa được trùng tu và mở rộng, chùa có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ và 7 gian nhà thờ. Ngôi chùa cũng là nơi cất giữ những di tích xưa mang giá trị lịch sử và văn hóa lớn.
Hàng thú đá trước cửa tam quan với 10 tượng thú bằng đá cao 10 m, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại 2 con, nằm trên bệ sen tạc bằng đá xanh trong tư thế phủ quỳ Phật pháp.
Sau chùa, nơi sườn núi thanh tịnh vẫn còn khoảng 32 ngọn tháp xây bằng gạch và đá, là nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì ở đấy, phần lớn được dựng vào thế kỉ XVII. Ngọn tháp lớn nhất là Tháp Phổ Quang, cao 5,10 m gồm đế, khám thờ, hai tầng diềm và mái mui luyện với chóp tròn…
Ở chùa, còn có những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu kê chân tảng... trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ Pháp, các nhạc công, vũ nữ v.v... Đó là những họa tiết, nét kiến trúc xưa được lưu giữ lại đã phản ánh sâu sắc thế giới đời sống người Việt từ sinh hoạt đến phong tục, tập quán đến những quan niệm tinh thần. Những dấu tích lịch sử vẫn trường tồn cùng thời gian đã đi vào tiềm thức của mỗi người mang dấu ấn văn hóa Việt đậm nét. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá.
Trở về với Phật Tích, trở về với những tĩnh lặng của cuộc sống, chính là trở về con đường hành hương dẫn ta tới cõi Giác. Phật Tích đã quy tụ thành một trục tâm linh thống nhất từ người, tới Tiên và Phật: Con người từ bộn bề cuộc sống trở về với khung cảnh bình yên trầm tư của ngôi chùa hàng bao thế kỉ, tới cõi Tiên với dấu tích của câu chuyện huyền thoại tiên giới giáng trần cứu vớt kẻ khổ nạn qua mối duyên tiên - tục Giáng Hương và Từ Thức, đưa ta tới đỉnh cao sự giải thoát, ấy là Vạn Phật Đài. Đó là con đường mang tên khoảng lặng tâm hồn. Khoảng lặng dành cho những giá trị lịch sử còn lưu tồn, những giá trị nghệ thuật được tôn vinh. Và đó cũng là khoảng lặng trong những ồn ã của cuộc sống thường ngày, ru tâm hồn ta chìm trong thanh tĩnh vọng tiếng chuông từng nhịp…!
Nguyễn Thị Kim Thu