Thursday, June 25, 2015

Hình ảnh: Đình Thôn Lương (Đình Dũng Vi) 1-5

Đình làng Lương

Tổng quan

Đình làng Lương (xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) có niên đại thời Lê Trung Hưng năm Chính Hòa thứ 21 (1700). Theo nhà nghiên cứu đình làng Nguyễn Hoài Nam thì đình Lương có nghệ thuật chạm khắc còn đẹp hơn cả đình Đình Bảng. Đây là một báu vật kiến trúc thời Lê Trung Hưng còn ít người biết tới. Vietlandmarks vinh dự được giới thiệu với bạn đọc gần xa bộ ảnh công phu do Nguyễn Hoài Nam và Việt Cường thực hiện ngày 01/01/2015.






More at source Viet Nam Landmarks

Wednesday, June 24, 2015

Nhiều bất ngờ từ kết quả khảo cổ học tại thành cổ Luy Lâu

Thứ sáu, 16/01/2015 - 09:33
 
Nhiều bất ngờ từ kết quả khảo cổ học tại thành cổ Luy Lâu
 
Mới đây, đoàn chuyên gia của Đại học Đông Á (Nhật Bản) và Bảo tàng lịch sử Quốc gia cùng với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh hợp tác khai quật khảo cổ học tại Thành cổ Luy Lâu (Thanh Khương, Thuận Thành). Trong thời gian hơn một tháng, từ ngày 27-11-2014 đến 3-1-2015, đoàn nghiên cứu đã phát hiện nhiều kết quả bất ngờ mà từ trước đến nay chưa được đề cập đến.
 
Chiếc cầu đá ở đền thờ Sĩ Nhiếp trong thành Luy Lâu.
 
Lần đầu tiên xác định vị trí, quy mô thành Nội
   
Thành cổ Luy Lâu là trị sở quận Giao Chỉ thời Hán. Hai nghìn năm trước, Luy Lâu là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Lĩnh Nam - Bắc Việt Nam. Trải các thời kỳ từ Tam Quốc đến Lục Triều và Tùy Đường, Luy Lâu phát triển rất phồn thịnh và là tòa thành nổi danh với bề dày lịch sử văn hóa lâu đời trong khu vực Đông Á cổ đại. 
  
Thành cổ được xây dựng bên bờ sông Dâu cổ là khu đô hội của quận Giao Chỉ với hai khu “dân cư, cảng thị vệ tinh” phía Đông phát hiện thấy di tích bãi phà Hồ và phía Tây là khu Sen Hồ - một cửa nhánh của dòng sông Dâu cổ trước kia (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội). Các nhà nghiên cứu dùng ảnh chụp vệ tinh Corona từ năm 1964 nhận thấy rõ dấu vết khúc uốn của sông Dâu để lại và xác định địa tầng văn hóa Luy Lâu chỉ cao hơn so với mặt nước biển khoảng 5-7m. So sánh thấy khá giống với địa hình một khu đô thị văn minh Ai Cập cổ đại gần sông Nin. 
 
Thành cổ Luy Lâu gồm hai vòng thành Ngoại và Nội. Thành Ngoại có kết cấu bình đồ hình chữ Nhật, lệch Tây 9 độ, tường phía Tây dài 290m, tường phía Đông dài 268m, tường phía Bắc dài 603m, tường phía Nam dài 512m. Chứng tỏ, kết cấu chỉnh thể của thành Luy Lâu được xây với hướng chính Bắc, giống với cách thức xây đắp các khu đô thành và đô thị ở quận huyện Trường An, Lạc Dương thời Hán. 
 
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trước đây mới chỉ đề cập đến thành Ngoại mà hầu như chưa nói đến thành Nội. Vì vậy, để tìm hiểu quy mô, xác định kết cấu của thành Nội, đoàn nghiên cứu  mở 3 hố thám sát trong khu vực thành Nội. Kết quả tìm thấy vết tích của tường thành phía Đông thành Nội với nhiều lớp đất đắp thành, độ cao của tường là 1,8m, chân tường rộng 5m, mặt trên rộng 2,5m. Tại hố khai quật phía sau đền Sĩ Nhiếp phát hiện giới hạn phía Nam thành Nội và dấu vết cung điện thời Tùy Đường. Đáng chú ý là di tích tường thành phía Bắc và cổng thành phía Bắc của thành Nội cũng được xác định. 
 
Theo NCS Trương Đắc Chiến, cán bộ Bảo tàng lịch sử Quốc gia - người phụ trách khai quật khảo cổ học tại Luy Lâu đợt này cho biết: Những kết quả khảo cổ học đợt này cho phép đoàn nghiên cứu đoán định vị trí, quy mô của thành Nội không phải là lệch về phía Tây như bản vẽ năm 1969 và năm 1986 của Viện Khảo cổ mà thành Nội được mở rộng về phía Đông và thiên về phía Bắc. Cấu tạo của thành Nội có chiều dài Đông - Tây là 170m, chiều rộng Nam - Bắc là 110m. Tuy nhiên, vị trí tường thành phía Tây mới chỉ được xác định qua việc khôi phục địa hình và phải chờ đến lần khai quật tiếp theo. Từ các tầng văn hóa khảo cổ có thể chứng minh khu đô thị Luy Lâu thuộc quận Giao Chỉ xưa được xây dựng trải qua các thời kỳ từ Hán đến Lục Triều, Tùy Đường đều được xây dựng tại chính địa điểm thành cổ Luy Lâu.
 
Đoàn nghiên cứu tại một hố khai quật khảo cổ học ở Luy Lâu (Thuận Thành).
 
Tìm thấy hơn 50 mảnh khuôn đúc trống đồng
   
Một phát hiện mới quan trọng mang đến nhiều bất ngờ nhất là đã tìm được khoảng hơn 50 mảnh khuôn đúc trống đồng bằng đất nung ở độ sâu từ 1,8-2m bao gồm cả khuôn ngoài và khuôn trong, thuộc các bộ phận khác nhau như mặt, tang, lưng và chân. Các mảnh khuôn ngoài thường có những vòng tròn hoa văn điển hình của trống đồng Đông Sơn như: vòng tròn tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm, vạch ngắn song song, vân bông lúa… Trong khi các mảnh khuôn ngoài thường có màu đỏ nhạt thì mảnh khuôn trong thường có màu trắng xám và đặc. Mảnh khuôn lớn nhất tìm được dài khoảng 18cm, rộng 9cm, dày 6,5cm và có lẽ là phần chân trống, không trang trí hoa văn. 
  
Cùng với những mảnh khuôn đúc là các bộ phận khác không kém phần quan trọng như phễu rót đồng hay chốt định vị trục xoay. Những hiện vậy này góp phần khẳng định cho giả thuyết đúc trống trên bàn xoay theo 5 bước: Chế tạo ruột trên trục bàn xoay; Làm hai mang thân và vẽ hoa văn; Làm mặt và tạo hoa văn; Làm quai ; cuối cùng là ráp khuôn. 
 
Đáng nói là các mảnh khuôn đúc trống được tìm thấy lần này cách đền Lũng khoảng 80m về phía Bắc và cách nơi cố TS. Nishimura đã phát hiện ra mảnh khuôn đúc trống đồng đầu tiên vào năm 1999 khoảng 20m về phía Nam. Nói như PGS.TS.NGND Hoàng Văn Khoán là: Trước đây cố TS.Nishimura mới chỉ phát hiện được một mảnh đầu tiên và duy nhất thì nay “một rổ” mảnh khuôn đúc trống đồng được tìm thấy. 
 
Dựa trên các hiện vật khác tìm thấy trong cùng địa tầng như mảnh gốm in ô vuông hay đầu  ngói ống, các nhà khoa học xác định niên đại của mảnh khuôn đúc trống khoảng thế kỷ 4 sau công nguyên. Mặc dù còn khá thận trọng, chưa khẳng định Luy Lâu là nơi đúc trống đồng nhưng giới chuyên môn đều đánh giá những kết quả này có giá trị và ý nghĩa lớn cung cấp khối lượng tư liệu bằng hiện vật để tìm hiểu về kỹ thuật đúc trống đồng và là tiêu chuẩn quan trọng cho việc nghiên cứu niên đại trống đồng Đông Sơn nói riêng và văn hóa Đông Sơn nói chung.
 
Bài, ảnh: Thuận Cẩm
 

Hội Đình làng Lương - Tri Phương - Tiên Du - Bắc Ninh

Tháng 2

    • Mùng 1: Hội Đình làng Lương - Tri Phương - Tiên Du - Bắc Ninh, Đình thờ 3 anh em họ Cao gia và bà Vương phi Ỷ Lan
Hội làng Bình Ngô - Xã: An Bình, Huyện Thuận Thành, nơi thờ các bậc thủy tổ dân tộc: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ và Hùng Vương đệ nhất. Các sắc phong có niên đại như sau: 4 sắc Thiệu Trị 6 (1846), 3 sắc Tự Đức 3 (1850), 1 sắc Đồng Khánh 2 (1887), 1 sắc Duy Tân 3 (1909), 2 sắc Khải Định 9 (1924). Điều quý giá là bản thần tích "Hồng Bàng phả" của đền Bình Ngô đã cho biết rõ lai lịch, công trạng của các bậc thủy tổ dân tộc: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Hùng Vương
  • Mùng 4: Hội Đình Đông - Đình Đoài, xã Mão Điền, huyện Thuận Thành (hai đình chung một hội)
    • Mùng 6
      • Hội Đình Làng Đông Côi (Thôn Cả - Thị Trấn Hồ - H. Thuận Thành - T. Bắc Ninh).
      • Hội Đình làng Dương Húc (Đại Đồng - Tiên Du), lễ rước Thành hoàng có công dẹp giặc Ân giúp nước.
      • Hội đình Keo ở Phù Chẩn, thị xã Từ Sơn
      • Hội làng Nghĩa Chỉ ở Nghĩa Chỉ, Minh Đạo, Tiên Du.
    • Mùng 6-­2:
      • Hội trình nghề ở Phương La Đông, Phương La Đoài (Tam Giang,­ Yên Phong).
      • Hội làng Tiêu Long, xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 7:
      • Hội đền Đức Vua Bà (Thuỷ tổ Quan họ) làng Viêm Xá (Diềm) ở xã Hoà Long, huyện Yên Phong.
      • Hội làng Hồi Quan nơi thờ đức thánh Tam Quang ở xã Tương Giang thị xã Từ Sơn
      • Hội Chùa Đài hay còn gọi là chùa Kim Đài, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn
    • Mùng 7­-15:
      • Hội tranh cây mộc tất làng Long Khám ở xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du.
    • Mùng 7-9:
      • Hội làng Tiến Bào ở Tiến Bào, xã Phù khê, thị xã Từ Sơn
      • Hội làng Nguyễn Thụ ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Lễ Xuyên ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
      • Hội làng Yên Lã ở phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn.
      • Hội chùa Tiêu ở xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 8-9:
        • Hội làng Hưng Phúc ở xã Tương Giang, thị xã Từ Sơn
    • Mùng 8­-10:
      • Hội làng Cẩm Giang ở phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn.
    • Mùng 10:
      • Hội làng Đại Vi, xã Đại Đồng, Tiên Du, Bắc Ninh
      • Hội làng Vân Xá, xã Cách Bi, huyện Quế Võ, thờ Lê Văn Thịnh (Thủ Khoa Đại Việt đầu tiên)
      • Hội làng Dương Lôi (Đình Sấm) ở phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn để kỷ niệm ngày mất của bà Phạm Thị, mẹ Lý Công Uẩn.
      • Hội làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du. Kỷ niệm ngày sinh của ông bà Phụ Quốc Đại Vương TRẦN QÚY và Minh Phúc Hoàng Thái Hậu PHƯƠNG DUNG, người có công cứu mạng Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ). Tưởng nhớ ơn hai anh em vị tướng ĐÀO LẠI BỘ người có công giúp Thục Phán AN DƯƠNG VƯƠNG đánh giặc Triệu Đà xâm lược.
      • Hội làng Đông Phù (Phú Lâm, ­Tiên Du) có trò rồng rắn đuổi bệt.
      • Hội làng Đại Mão, xã Hoài Thượng, Thuận Thành, Bắc Ninh
      • Hội làng Tiền Thôn, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
    • Mùng 10 - 12:
      • Hội làng Yên Mẫn, phường Kinh Bắc, Thành phố Bắc Ninh
    • Ngày 14:
      • Hội chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, TP Bắc Ninh.
    • Ngày 14­-15:
      • Hội chùa làng Nghiêm Xá ở xã Việt Hùng, huyện Quế Võ.
    • Ngày 12­-16:
      • Hội đình Đình Bảng (Đình Bảng, ­Từ Sơn) có đón chạ Cẩm Giang và thi đấu vật.
      • Ngày 17: Hội làng Nghi An (Trạm Lộ - Thuận Thành) rước phật, đá bóng, bóng chuyền, đánh đu, chọi gà, hát quan họ.
Lễ hội Đền Quan được tổ chức trong hai ngày 21 - 22/2 âm lịch hàng năm với nhiều hoạt động văn hóa thể thao, trò chơi dân gian phong phú hấp dẫn. Đây không chỉ là niềm vinh dự, tự hào của nhân dân và chính quyền địa phương mà còn là niềm động viên, khích lệ nhân dân có ý thức bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử của di tích.
Lễ hội tưởng niệm Đức Thánh Tam Giang. Vọng Nguyệt là nơi có đền thờ chính thờ Trương Hống (trong số 300 làng thờ Đức Thánh Tam Giang) - người anh cả trong gia đình có năm anh em, đã có công giúp Triệu Việt Vương đánh giặc và sau này hiển linh giúp Lê Đại Hành (981), Lý Thường Kiệt (1076) trong kháng chiến chống quân Tống. Tương truyền ông và người em - Trương Hát đã đọc bài thơ Nam quốc sơn hà trong các cuộc kháng chiến đó.[6][7]
    • Ngày 26:
      • Hội làng Tiến sĩ Kim Đôi ở xã Kim Chân, TP Bắc Ninh.
    • Ngày 28: Hội chiến thắng Như Nguyệt ở xã Tam Giang, huyện Yên Phong.

Source Wikipedia - Danh sách lễ hội ở Bắc Ninh

Thursday, June 18, 2015

Dũng Vi: Hội mân côi mừng lễ bổn mạng

Dũng Vi: Hội mân côi mừng lễ bổn mạng


Dũng Vi:  Chúa nhật ngày 05.10.2014, chị em Hội Mân Côi Dũng Vi hân hoan Mừng Lễ Kính Đức Mẹ Mân Côi – Bảo Trợ.

Ngay từ sớm, bảy mươi ba chị em đã qui tụ về khu nhà xứ để chuẩn bị các công việc cho ngày lễ bảo trợ của mình. Với sự hiện diện của cha xứ Giuse, quí vị ban hành giáo sở tại càng làm cho bầu khí thêm đầm ấm, hân hoan và vui mừng.

Đúng 9 giờ, việc bầu lại ban đại diện của hội được bắt đầu qua hình thức bỏ phiếu kín. Ngay lần bỏ phiếu đầu tiên, các chị em đã chọn ra được ban đại diện mới: chị Maria Đinh Thị Nhàn làm trưởng hội, chị Maria Nguyễn Thị Tôn làm phó, và thư kí là chị Maria Thạch Ngọc Lý. Sau đó, chị em cùng quí khách cùng chung bữa tiệc liên hoan trong tình hiệp nhất và đầy tin yêu. Đúng 14 giờ, chương trình dâng hoa Kính Đức mẹ Mân Côi bắt đầu. Tiếp đến, Hội Mân Côi cùng đông đảo bà con giáo dân hiệp dâng Thánh Lễ Kính Đức Mẹ Mân Côi trong bầu khí trang nghiêm và sốt sáng.

Dưới đây là bài cám ơn của chị đại diện Hội Mân Côi Dũng Vi:

Trọng kính Cha xứ Giuse

Kính thưa quí thầy, quí vị ban hành giáo, quí cụ ông bà, quí khách và quí cộng đoàn!

Con xin đại diện cho chị em Hội Mân Côi có đôi lời cảm tạ tri ân:
Chúng con toàn thể Họ Mân Côi, hôm nay ơn phúc Mẹ ban tràn đầy.
Cha về dâng Thánh Lễ hiệp thông, cầu cho giáo xứ chúng con trước rồi.
Sau là đến chị em con; hưởng niềm vui của Mẹ xuống dư phúc đầy.
Trong giờ Thánh Lễ hôm nay, lời cha chia sẻ với bao tâm tình;
Cho con biết sống yêu thương, tinh thần đoàn kết hội đoàn phát huy.
Noi dương của Mẹ sống đời, tâm hồn đổi mới sẵn sàng xin vâng.
Chúng con cảm tạ Mẹ nhiều, Mẹ thương nhắn nhủ bao lời yêu thương.
Hãy năng lần chuỗi sớm chiều, tràng mân côi sống kết dài, dài thêm.
Cùng bao lời ý nguyện cầu, tâm tình cùng Mẹ hướng về Chúa thôi!
Giờ Thánh Lễ đến đây đã hết, chúng con xin cảm tạ cha nhiều.
Những lời cha dạy hôm nay, chúng con xin hứa giữ tròn phận con.
Cảm ơn lời của quí thầy, giúp cho giáo xứ chúng con muôn phần.
Rất cảm ơn quí ban hành giáo, giúp chúng tôi chu đáo mọi phần.
Giờ đây chẳng biết nói gì, xin dùng hai chữ cảm ơn thay lời.
Cảm ơn tới ban kèn đồng, nhiệt tâm phục vụ thêm phần trang nghiêm.
Cảm ơn tới quí ca đoàn, lời ca tiếng hát góp phần ca khen.
Đồng cảm ơn cộng đoàn thân kính, từ cụ già cho đến các em;
Nhiệt tâm cầu nguyện âm thầm, hợp dâng Thánh Lễ để cùng sẻ chia.
Bây giờ xong buổi nhà thờ, chúng con trân trọng kính mời quí cha.
Sau là mời cả cộng đoàn, cùng chung vui uống nước nơi ngôi nhà phòng.
Cuối cùng kính chúc quí cha, cùng con dân Chúa, Mẹ ban ơn lành.

??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ??????????????????????????????? ???????????????????????????????
 
Dũng Vi, ngày 05.10.2014
Maria Đinh Thị Hợp
 
 

Monday, June 15, 2015

Vì sao người Việt chọn San Jose, California



Published on Feb 3, 2015
 
Người Việt TV (c) 2013 - http://NGUOIVIETTV.com
Người Việt Online - http://NGUOI-VIET.com

Về đơn vị hành chính “Tổng” ở Việt Nam - Đinh Khắc Thuân

Về đơn vị hành chính “tổng” ở Việt Nam
[ 20/08/2014 05:45 AM | Lượt xem: 380 ]
Về đơn vị hành chính “tổng” ở Việt Nam
Đinh Khắc Thuân
 
Tổng là đơn vị trung gian giữa huyện và xã trong hệ thống hành chính được duy trì trong một thời gian dài dưới thời phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn gốc, thời điểm xuất hiện và chức năng của tổng đến nay vẫn còn là những câu hỏi chưa có lời giải đáp thoả đáng. Phần đông các nhà sử học đều cho rằng, tổng chỉ xuất hiện vào thời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX trở đi). Song không ít người đưa ra một thời điểm xuất hiện sớm hơn của đơn vị hành chính này. Bài viết này đưa ra một số tư liệu mới cùng một vài kiến giải bước đầu, hy vọng góp thêm vào cuộc thảo luận cho vấn đề được nêu.
 
1. Sự xuất hiện đơn vị hành chính tổng
Nguồn tư liệu thư tịch cho biết đơn vị hành chính cấp tổng xuất hiện khá muộn. Kể cả Dư địa chí của Nguyễn Trãi biên soạn vào thế kỷ XV, đến các bộ dư địa chí, bản đồ thời Hồng Đức, cũng như Ô Châu cận lục của Dương Văn An thế kỷ XVI chưa hề chép về tổng. Trong các bộ sử đương thời cũng vậy, như Đại Việt sử ký toàn thư - cuốn biên niên sử ghi chép các sự kiện lịch sử Việt Nam từ buổi đầu lập nước đến năm cuối cùng đời vua Lê Gia Tông (Đức Nguyên 2 - 1675), cũng không có dòng nào chép về đơn vị hành chính tổng này. Nguồn tư liệu thư tịch sớm nhất ghi chép về tổng có lẽ là Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tác phẩm được biên doạn vào thế lỷ XVIII.
 
Tuy vậy, qua một số văn bia chúng ta thấy đơn vị hành chính tổng xuất hiện không những ở thời nhà Mạc thế kỷ XVI mà cả vào thời Lê Sơ (từ đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI).
 
Bia Tự điền bi ký, số kí hiệu thác bản 3382-3, khắc năm Hồng Đức 2 (1471) tại xã La Khê (nay thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) ghi: “Điền tại bản huyện, Nội Lãng tổng, Huyền Chân xã”, nghĩa là “Ruộng tại xã Huyền Chân, tổng Nội Lãng trong huyện”. Bia Công chúa tự điền, kí hiệu thác bản 3675, dựng năm Hồng Thuận 5 (1513) ở đền Vũ Bị (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) ghi: “Nhất sở tại Cổ Bị tổng, An Nội xã, tam mẫu ngũ cao”, nghĩa là “Ruộng 1 mảnh tại xã An Nội, tổng Cổ Bị, diện tích là 3 mẫu 5 sào”; hoặc “Bản tổng An Phú xã”, nghĩa là “xã An Phú trong tổng”…
 
Trong văn bia thời Mạc thế kỷ XVI, chúng ta thấy tổng xuất hiện phổ biến và đầy đủ hơn trong hệ thống đơn vị hành chính ở địa phương.
 
Chẳng hạn trên bia chùa Hồng Khánh (xã Đốc Hành, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng) ghi: “Tín vãi các xã và các tổng của huyện Tân Minh cúng ruộng vào chùa năm Hưng Trị 2 (1589)”. Bia chùa Thiên Phúc, xã Đa Phúc, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây ghi: “Ninh Sơn huyện, x x tổng, Lật Sài xã”, nghĩa là “xã Lật Sài, tổng x x, huyện Ninh Sơn”. Hai chữ ghi tên tổng này bị mờ, nhưng rõ ràng là tên gọi của một tổng nào đó thuộc huyện Ninh Sơn. Căn cứ vào sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thì đây là tổng Lật Sài, nay phần lớn các xã của tổng này thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
 
Bia hội tư văn huyện Tân Minh đặt tại xã Ninh Duy (huyện Tiên Lãng, Hải Phòng) kê số người trong hội tư văn của 11 tổng trong huyện Tân Minh, phủ Kinh Môn năm Sùng Khang 10 (1574) là: “Tổng Xuân Cát gồm 33 người, tổng Động Hàm gồm 44 người, tổng Kim Đới gồm 26 người, tổng Văn Thị 22 người, tổng Lật Khê 2 người, tổng Kinh Thanh 13 người, tổng Yên Tử Hạ 1 người, tổng Tân Duy 23 người, tổng Cẩm Khê 3 người, tổng Tự Tân 2 người, tổng Xuân úc 1 người”.
 
Bia chùa Phúc Lâm Hoằng Thệ xã Vĩnh Thệ, huyện Tiên Phong (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) dựng năm Hưng Trị 2 (1589) ghi: “Hai tổng Thanh Long và Tây Đằng được làm ba khu: các xã Thanh Long, Vị Nội, Kim Bình Lũng làm 1 khu, các xã Tây Đằng, Phấn Thượng, Lai Bồ, Phấn Phan, Nghệ Trai, Nghị Dũng làm 1 khu…”1. Trong một số văn bia khác còn thấy ghi tên gọi người đứng đầu của tổng là Tổng chính (bia chùa Hương Sơn, nay thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ), hay Trùm tổng như trên bia chùa Hồng Phúc (nay tuộc xã Xuân ổ, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh)…
 
Như vậy, tổng không những xuất hiện từ thời Mạc mà đã xuất hiện từ trước bởi “từ hai tổng Thanh Long và Tây Đằng mà chia thành ba khu” như văn bia Phúc Lâm Hoằng Thệ ghi đã nêu ở trên.
 
Đây là những tư liệu sớm nhất hiện biết về tổng. Trước thời kì Lê Sơ, tuyệt nhiên chưa từng thấy dấu tích nào của đơn vị hành chính này. Tuy đã xuất hiện ở giai đoạn Lê Sơ, song tên gọi này cũng chỉ mới xuất hiện ở một vài địa phương. Sang thời Mạc, những đơn vị hành chính tổng này tiếp tục được duy trì và mở rộng hơn. Thực tế, sự xuất hiện của đơn vị hành chính ở tổng thời kỳ đầu này không phải là chủ ý của triều đình Lê hay Mạc mà do nhu cầu thực tại của từng địa phương trước sự mở rộng và phát triển làng xã từ nửa sau thời Lê trở đi. Cũng như phủ ở Trung Quốc, ban đầu do một số châu lớn mà lập thêm phủ, nên sau đó phủ trở thành đơn vị hành chính quản lý cấp châu và huyện; tổng ở thời Lê Sơ và Mạc xuất hiện gắn với nhu cầu các hoạt động tín ngưỡng khá sôi nổi dưới thời Lê - Mạc, nhất là ở triều Mạc với sự xuất hiện ngôi đình làng và việc thờ thành hoàng ở đình, đồng thời gắn với nhu cầu mở rộng phát triển làng xã, nhiều xã mới hình thành và đòi hỏi có một cấp trung gian để cai quản các xã đó, trước hết về sinh hoạt tín ngưỡng, tổ chức lễ hội, làm thuỷ lợi…
 
Cũng chính vì tổng xuất hiện do sự mở rộng của làng xã, nên mỗi tổng thường gồm một số làng xã có chung một tên Nôm gốc, do vậy, ngoài tên Hán Việt, mỗi tổng còn có tên Nôm. Sau mỗi làng có một tên Nôm riêng, có yếu tố gốc đứng đầu. Phần lớn tên gọi của tổng được lấy theo tên gọi của một xã đứng đầu, như tổng Tây Đằng, nay thuộc địa phận huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây gồm các xã: Tây Đằng, Lai Bồ, Vình Thệ, Văn Trai, Kim Bí và Đằng Lũng; tổng Lập Bái nay thuộc địa phận huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình có các xã Lập Bái, An Tiêm, Hương La, An Khê, Cổ Sách, Thượng Đạo1… Những làng xã có tên được dùng cho tên của tổng được gọi là dân đầu tổng, thường ở vị trí trung tâm, có những đặc điểm nổi hơn về dân cư, kinh tế và trong nhiều trường hợp, cả về tính cách.
 
Trong khi hầu hết các đơn vị hành chính khác được sử dụng trong các triều đại phong kiến Việt Nam như đạo, lộ, phủ, huyện, xã đều có nguồn gốc từ Trung Hoa thì tổng hoàn toàn không mang yếu tố ngoại lai. Tuy nhiên, tổng không phải là do nhà nước phong kiến thời Lê hay thời Mạc đưa xuống mà chính là sản phẩm của các yếu tố sau:
 
- Yếu tố địa lý: mỗi tổng thường gồm một số làng nằm chung một thế đất, thế nước, do vậy có chung nguồn nước tưới tiêu. Điều này ở các vùng trung du, vùng chiêm trũng càng rõ nét hơn. Mỗi tổng thường gắn với một ô trũng có thế đất, thế nước riêng.
 
- Yếu tố lịch sử - văn hoá: các làng xã thuộc một tổng thường có chung một quá trình lịch sử hình thành và phát triển. Do vậy, thường cùng thờ chung thành hoàng, lúc đầu chung đình chùa, sau mới tách ra dùng đình chùa riêng.
 
Có thể thấy tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc là một ví dụ điển hình. Tổng này lúc đầu có tên Nôm là Cói, do ở đây có một vệt ao hồ có nhiều cói mọc, sau phiên âm ra tên Hán - Việt là Cối Giang. Sau khi Trịnh Tùng lên nắm quyền, vì ghét em là Trịnh Cối làm phản (năm 1570) nên cho đổi làm Hội Giang, đến khi Trịnh Giang lên ngôi chúa (năm 1730) lại cho đổi làm Hội Phụ. Tổng này gồm 8 làng Cói, trong đó có các làng Cói ao dài (3 làng Du Nội, Du Ngoại và Du Bi, nằm trong xã Du Lâm), Cói Thái Đường, Cói Chợ… Các làng đều thờ Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, cùng tổ chức hội lệ vào đầu tháng 2. Các cụm làng lúc đầu thường chung đình chùa, sau dựng đình chùa riêng1.
 
Trường hợp tổng Dương Lễ, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây là một ví dụ khác. Tổng này lúc đầu gồm 3 làng Sấu, gọi là Sấu Chợ (Dương Liễu, do làng có một chợ to), Sấu Vật (Quế Dương, do làng có truyền thống đấu vật) và Sấu Mậu (Mậu Hoà) nên gọi là tổng Sấu. Ba làng cùng nằm ven sông Đáy, chung dải đất bãi và đồng ruộng ở thế cao (đông mùa). Văn bia Bản tổng tạo đình bi ký dựng năm Chính Hoà 10 (1689) hiện dựng ở vệ đê sát đình Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây cho biết 3 xã Dương Liễu, Quế Dương và Mậu Hoà trong tổng vốn có ngôi đình chung lợp lá, nay làm lại đình mới 3 gian 2 chái, sau đó định lệ tu bổ và tế lễ tại đình. Định lệ rằng, đình chia làm 5 phần, xã Dương Liễu, Quế Dương mỗi xã 2 phần, xã Mậu Hoà 1 phần lo tu bổ hàng năm và được chia ngồi nơi đình trung mỗi kỳ lễ hội. Hội vùng Sấu xưa kia tổ chức vào 12/3 là hội lớn, được phân công tổ chức rất chu đáo giữa 3 làng cùng thờ vọng Lý Phục Man - nhân vật lịch sử thế kỷ VI (nơi thờ chính là Quán Giá, xã Yên Sở). Về sau, hai làng Quế Dương và Mậu Hoà dựng đình riêng.
 
Từ chỗ xuất hiện rải rác ở một vài nơi rồi trở nên phổ biến ở nhiều địa phương và cuối cùng Nhà nước ở các triều đại sau đó mới thừa nhận và đặt nó trong hệ thống các bộ địa chí hành chính của quốc gia. Vì lẽ đó mà trong các bộ quốc sử hay trong các bộ địa chí của các triều đại phong kiến Việt nam, tổng chỉ mới được ghi từ những năm cuối thời Lê Trung Hưng (cuối thế kỷ XVIII) và trong các niên hiệu triều Nguyễn mà thôi.
 
2. Chức năng và tổ chức đơn vị cấp tổng
Từ những tư liệu trên có thể thấy rằng tổng chỉ là tập hợp của một cụm làng xã có mối quan hệ thân thuộc về địa lý, lịch sử, văn hoá và nhất là tín ngưỡng. Quy mô một tổng lúc đầu thường nhỏ, có chức năng chủ yếu là:
 
- Liên kết trong việc làm thuỷ lợi, bảo đảm nguồn nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
- Bảo trì và cúng tế tại một ngôi đình chung của tổng. Điều này hoàn toàn tương ứng với tên gọi dân gian của người đứng đầu của các tổ chức tín ngưỡng khác như lão vãi, sãi vãi… thường gặp trên văn bia thế kỷ XVII -XVIII.
- Liên kết chống trộm cướp.
Tuy nhiên, tổng chưa có chức năng thực thụ của một cấp hành chính ở địa phương.
 
Điều này hoàn toàn tương tự sự xuất hiện tổ chức “đô” (du) ở thời Minh Trung Quốc nhằm liên kết các động ở biên giới để tăng cường khả năng tự vệ1.
 
Chúng ta cũng đã gặp tên gọi đô này liên quan đến mấy động biên giới mà sử sách ghi là nhà Mạc trả lại cho nhà Minh vào năm Đại Chính 11 (1540), trong một đoạn văn sau: “Quảng Đông Khâm Châu thủ thần tấu xưng: Như Tích, Chiêm Lãng nhị đô Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát đẳng tứ động nguyên hệ Khâm Châu cố địa”, nghĩa là “Thủ thần Khâm Châu tâu xưng là 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích và Chiêm Lãng là đất cũ của Khâm Châu”2. Chính vì không rõ đơn vị đô này nên không ít sách sử đã có sự nhầm lẫn về số lượng các động trên, chỗ thì ghi là 4 động, chỗ thì ghi là 5, thậm chí là 6 động. Thực tế chỉ có 4 động thuộc hai đô (tương tự tổng của người Việt) mà sau khi nhà Mạc thay thế nhà Lê.
 
Xuất hiện từ thời Lê - Mạc và tiếp tục được duy trì ở thời Lê - Trịnh thế kỷ XVII, XVIII, song tổ chức này vẫn chủ yếu tồn tại với chức năng liên kết tự nguyện một cụm làng xã với nhau trong các hoạt động thuỷ lợi, tín ngưỡng. Vì thế trong thời kỳ này xuất hiện một số ngôi chùa và ngôi đình chung của một vùng được gọi là chùa Tổng, đình Tổng.
 
Từ đầu thế kỷ XIX, khi mà cấp tổng được thành lập phổ biến trong phạm vi cả nước, thì tổng mới có chức năng của một đơn vị hành chính trong bộ máy chính quyền địa phương. Khi này mỗi tổng bao gồm trên dưới 10 xã thôn. Đứng đầu tổng là viên cai tổng và phó cai tổng, song từ năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), nhà Nguyễn định cho các địa phương chỉ đặt mỗi tổng một viên cai tổng. Sau đó được quy định cụ thể hơn là: tổng nào có số đinh dưới 5000 người, ruộng dưới 1000 mẫu, lại nhiều việc, ở cách xa huyện lỵ từ hai ngày đường trở lên thì ngoài viên cai tổng, còn cho đặt thêm một viên phó cai tổng. Đầu thời Nguyễn, chức cai tổng mang hàm bát phẩm, về sau giảm xuống hàm tòng cửu phẩm. Chức cai tổng thường là do các viên tri phủ, tri huyện kén chọn người rồi làm tờ đề đạt lên. Cai tổng là người có trách nhiệm trông coi một tổng, có nhiệm vụ: “Đến kỳ binh lương thì thu thuế đúng hạn, có trộm giặc lén lút thì nã bắt, hay có cường hào gàn dở thì vạch rõ để trị tội, có kẻ điêu toa gian dối thì trừng trị để cho thuế khoá xong đủ, địa phương yên ổn, dân không bị tổn hại và không bị phiền nhiễu”3.

Tóm lại, tổng xuất hiện từ thời Lê - Mạc và được duy trì trong thời Lê -Trịnh, song thực sự trở thành đơn vị hành chính cấp trung gian giữa huyện và xã mới từ đầu thời Nguyễn. Sự xuất hiện đơn vị cấp tổng này là hệ quả của sự mở rộng và phát triển của làng xã cả về quy mô không gian và dân cư, đến các hoạt động tín ngưỡng, văn hoá ngày càng phong phú nơi làng xã.
 
Source LichSu

Monday, June 8, 2015

Đình Dũng Vi - Blog KYDV

Đình Dũng Vi - Blog KYDV

Trước đây, trong một số bài viết của đồng hương Dũng Vi có nhắc đến ngôi đình làng cổ kính đã được nhà nước công nhận là Di sản Văn hóa quốc gia.


Ngôi đình này hiện vẫn tồn tại và tọa lạc tại Thôn Lương, thuộc xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trên Google Maps với tên là Communal House of Luong Village - Di tích Lịch Sử Văn Hóa Đình Làng Lương (Thôn Lương). Xã Tri Phương hiện nay bao gồm 4 thôn là: Thôn Lương, Thôn Giáo, Thôn Đinh và Thôn Cao Đình.

Mùng 1, Tháng 2:
Hội Đình làng Lương - Tri Phương - Tiên Du - Bắc Ninh, Đình thờ 3 anh em họ Cao gia và bà Vương phi Ỷ Lan. (Source Wikipedia - Danh sách lễ hội ở Bắc Ninh)

Bản đồ Google
 
 
Trước đây vài Thế kỷ, khi Thôn Giáo chưa tòng giáo (theo đạo Công Giáo), Thôn Giáo và Thôn Lương là một như bài viết của Tác giả đồng hương Lam Thy Đinh Văn Diệm đã đề cập... Đình Làng Lương ngày nay có lẽ cũng chính là Đình Dũng Vi xa xưa... Hiện nay rất ít chi tiết về ngôi đình làng này được phổ biến, chúng tôi cũng đã cất công tìm kiếm (research) nhưng không có tài liệu lịch sử nào mô tả rõ ràng lai lịch cũng như kiến trúc của ngôi đình... Đại khái chỉ biết là Đình làng Dũng Vi đã được kiến trúc từ những Thế kỷ trước.

Trong những câu chuyện của gia đình. Tôi cũng đã được nghe song thân, nhất là thân phụ (Ông Đinh Tất Cuông) kể về những kỷ niệm thuở thơ ấu (vào khoảng những năm của thập niên 1930 của thế kỷ 20) khi ông còn đến sân đình làng mỗi ngày để vui chơi và học... Tuy nhiên những câu chuyện trên chỉ cho tôi biết là Làng Dũng Vi có ngôi đình cổ kính nằm khá gần nhà ở khu vực ngã ba cây bàng, chợ Ve... Ngoài ra ông bà cũng còn nhắc đến những địa danh khác như Văn Chỉ, Cầu Ve, Xóm Gạ, Phù Đổng...v.v.

Gần đây chúng tôi có tìm thấy trên Trang mạng Việt Land Marks có đăng nhiều hình ảnh chi tiết (khoảng hơn 100 tấm) về Đình Làng Lương mà người viết bài này cho rằng đó chính là Đình Dũng Vi (có lẽ còn cần thêm chứng thực từ những tài liệu chính thống). Bên cạnh đó, trang mạng này cũng cho biết thêm chi tiết về niên đại của ngôi đình được kiến trúc từ thời Lê Trung Hưng năm Chính Hòa thứ 21 (1700) và theo nhà nghiên cứu đình làng Nguyễn Hoài Nam thì đình Lương có nghệ thuật chạm khắc còn đẹp hơn cả Đình Đình Bảng. Đây là một báu vật kiến trúc thời Lê Trung Hưng còn ít người biết tới...

Mời quý đồng hương và bạn đọc cùng chúng tôi ghé xem những hình ảnh rõ ràng, chi tiết và sống động mà tôi nhận thấy đây là những kiệt tác về kiến trúc và điêu khắc phải tốn hàng chục năm để hoàn thành này tại địa chỉ: Đình Làng Lương

Một vài hình ảnh chia sẻ từ Trang mạng Việt Land Marks:




......
San Jose, California 6-2015
Blog KYDV
----------

Tài liệu liên quan:

Tìm hiểu di tích đình Lương, xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

----------

Bài viết liên quan:
- Tên Làng: Dũng Vi hay Dũng Vy ?
- Quê hương qua Ca dao: Ba cô đội gạo lên chùa - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Thằng Cuội - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 8 Con Chuột - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bánh Bèo - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: Bán Rượu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Yêu - Đinh Thức
- Quê hương qua Ca dao: 10 Lo - Đinh Thức
- Đình Dũng Vi - Blog KYDV
- Những tên gọi của làng Dũng Vi
- Những tên gọi của làng Dũng Vi (Tiếp theo)
- Thần Sắc và Thần Tích xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
- Thần Sắc và những vị Thành Hoàng làng Dũng Vi
- Văn Chỉ làng Dũng Vi
- Quê hương qua Ca dao: Cái Bống - Nhạc: Đinh Thức